hà giangThấm thoắt đã 20 năm, thầy Điện ba lần về Sán Sì Tủng lập bản nhưng trường vẫn chưa có phòng học, phải mượn nhà văn hóa bản.
Mùa thu năm 2003, thầy giáo Lương Triều Điền, lưng đeo ba lô, quyết định cuốc bộ ngược dốc đến bản xa nhất của xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn) sau 7 năm dạy học ở Sính Lủng.
San Si Tung – nơi cư trú của 28 gia đình người Mông bên kia thung lũng đá xám nhọn như tai mèo, cách biên giới 5 phút đi bộ. Đường vào làng chỉ là một con đường mòn với hàng loạt khúc cua tay áo.
Giữa tháng 8, Đồng Văn trở lạnh. Xẻ lá ngô, thầy Điền nhìn lên đầu làng khi đã tắt nắng. Những cái này mái nhà Ngôi nhà trình tường xiêu vẹo, lợp ngói âm dương hiện ra sau đỉnh núi. Bí thư, trưởng thôn và một số thanh niên chờ từ chiều. Anh vội vã xách ba lô, xách đồ, đón cô giáo trẻ thay thầy trở về thị trấn Đồng Văn cưới vợ.
“Gần 30 năm dạy học, ra đi rồi quay lại bản này như một định mệnh”, người thầy giáo 53 tuổi hôm nay đứng trước lớp học vốn là nhà văn hóa thôn Sán Sì Tùng nói.
Lớn lên ở Đồng Văn, thầy Điền đi học sư phạm rồi về dạy học ở các xã Sính Lủng, Sảng Tùng, Tả Phìn, Sà Phìn… Thầy nói cả đời dạy học chưa chắc đi hết con đường lên cao nguyên đá. Tôi muốn bọn trẻ đi xa hơn tôi, lên Hà Giang hay về Hà Nội. Nhưng sự có mặt của ngành giáo dục ở những ngôi trường biên giới những năm ấy cũng tương tự: không điện, không đường, không trường.
Buổi học đầu tiên, thầy rướn người bước qua cửa lớp để tránh va đầu, để mắt tới 40 em ngồi trong lớp học rộng 25 m2 lợp tranh và thân cây ngô đồng. Chiếc bàn học được bố mẹ gia cố bằng những cọc gỗ mới đóng dưới đất, đặt tấm ván lên trên. Anh Điền biết nhiệm vụ của mình trong 3 năm tới là phải phổ cập tiếng Việt và không để em nào trong số 40 học sinh phải nghỉ học. Tôi không dám nghĩ đến thành tích nào khác.
Năm ấy, cô Thu vợ anh Điền đang học trường cấp 2 bên kia đồi. Cuối ngày, bao giờ chị cũng nấu cơm đợi chồng về ăn. Nhưng nhiều hôm mâm cơm nguội lạnh vì chồng chị chọn cách ở lại sau giờ học hoặc soi đèn pin đến nhà vận động học sinh ra lớp. Ở nơi bữa ăn phụ thuộc vào cây ngô mọc ra từ hốc đá, những đứa trẻ “cao đến bắp” thường theo bố mẹ ra đồng hoặc ở nhà trông em, công việc được cho là quan trọng hơn. hơn đi học.
Để gặp học trò, nói chuyện với phụ huynh, thầy luôn phải canh chiều tối khi mọi người đã ở quê về. Những đoạn hội thoại dài, lặp đi lặp lại bằng tiếng Hmong xen lẫn tiếng phổ thông. Thầy nói đau họng, phụ huynh chỉ gật đầu, bảo về nhà, đợi bắp gãy xong sẽ cho con đi học. Thầy ngồi thẫn thờ, mùa thu hoạch cũng đã cuối năm, vội xua tay nói “không” rồi nhờ học trò khiêng vào lớp. Do đó, lớp học của giáo viên bao gồm những đứa trẻ từ một đến tám tuổi.
Cô giáo Điền đã cùng các em Sán Sì Tùng trải qua ba mùa đông với gần nửa số ngày dưới 10 độ C. Thầy trò vừa học vừa canh chừng đống củi sao cho không va vào mái nhà. Có hôm mưa bão, thầy mới kịp dặn học trò chui vào gầm bàn tránh trú.
Sự hiện diện của giáo viên duy nhất trong làng đôi khi có ý nghĩa hơn là phổ cập giáo dục. Cuối năm 2004, khi các cuộc họp liên tục về việc kéo đường dây điện không đi đến hồi kết, trưởng thôn đã tìm đến ông Diễn để mời góp ý. Dù kinh phí nhà nước hỗ trợ 2/3, nhân dân đối ứng 1/3, nhưng một số hộ dân vẫn không đồng ý đóng góp.
Giữa cuộc họp, cô giáo phân tích thêm, có điện trước hết là để các em học bài, sau là bà con đun nước, nấu cơm, xay ngô, xem tivi, nghe đài. Một hộ không mang được điện nhưng nhiều nhà góp sức thắp sáng cả làng.
Sau gần 20 ngày nghỉ Tết, thầy cô trở lại điểm trường khi Sán Sì Tùng lần đầu tiên có ánh điện lưới quốc gia. Tôi được biết, năm đó, có gia đình mang lợn lên chợ Đồng Văn bán để lấy tiền đóng góp.
20 năm sau những lần luân chuyển, ông Điền ba lần đi rồi lại về thôn Sán Sì Tùng, lần gần nhất vào cuối năm 2022. Số hộ trong thôn đã tăng gấp ba lần. Nhiều em thay vì đi làm thuê bên kia biên giới thì lên thủ đô học đại học, như em Sùng Mí Pó của ông Say học luật. Không còn phải soi đèn pin vận động học sinh đến lớp, thầy Điền còn coi đây là một bước tiến của giáo dục vùng cao.
Nhưng bục phát biểu ở Sán Sì Tùng hôm nay vẫn chỉ là tấm gỗ tạm đặt trên nền bạt trong nhà văn hóa thôn, bên cạnh bục gỗ dành cho người lớn phát biểu trong các cuộc họp. 34 học sinh lớp 1 và lớp 2 học ở cách phòng tập thể của trường mầm non 300m để tránh ồn ào khi trường mầm non tập múa hát. Đặc điểm để người ngoài nhận ra lớp học là những đứa trẻ quàng khăn đỏ chơi đuổi bắt trước hiên nhà. Trước ngày khai hội, ông Điền đã cùng bà con trong thôn dậy sớm hai ngày thu dọn bàn ghế cũ để về góc nhà, nối đường dây điện đã bị chuột cắn phá.
Chương trình học đôi khi bị gián đoạn hoặc hoãn sang buổi khác khi làng có việc. Lần gần đây nhất vào một đêm cuối tháng 2, thầy nhận được điện thoại của trưởng bản thông báo ngày mai sẽ có đoàn về tuyên truyền chính sách bảo vệ rừng và mốc giới cho bà con.
“Việc học quan trọng nhưng bảo vệ rừng cũng quan trọng không kém”, anh Điền không thể từ chối lời đề nghị của trưởng bản nên phải nhắn tin cho phụ huynh bảo con em chiều đi học rồi nghỉ ngơi. vào buổi sáng. Và giờ học đôi khi tạm dừng không phải để tránh bão mà là khi giáo viên thấy học sinh nhốn nháo. Mẹ biết ý, cho con chạy đi vệ sinh nhờ dãy trường mầm non.
Sau 20 năm, thầy giáo 53 tuổi mới có thể kể về những đổi thay nơi đây trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Nhưng hiện nay, San Si Tung vẫn không có phòng học đàng hoàng, không có chỗ ở cho giáo viên, thậm chí không có nhà vệ sinh để học sinh có thể đáp ứng nhu cầu cơ bản của mình.
“Vài năm nữa tôi về hưu nhưng các đồng nghiệp trẻ mới ra trường vẫn tiếp tục về Cái này giảng dạy, học sinh phải đến lớp hàng năm. Nếu cứ thế này thì khổ lắm”, ông Điển nói.
Trao quyền cho trẻ em vùng sâu, vùng xa có cơ hội cải thiện cuộc sống, Quỹ Hy vọng – báo VnExpress tiếp tục nhận quyên góp trong chương trình Ánh sáng học đường. Mỗi sự hợp tác của bạn đọc là thêm một tia sáng cho thế hệ tương lai. Độc giả có thể xem thông tin về chương trình tại đây.
Hồng Chiêu
https://vnexpress.net/mong-uoc-khong-phai-hoc-nho-cua-thay-giao-cam-ban-4602287.html