Vợ nhặt là một tác phẩm tiêu biểu làm nên tên tuổi của nhà văn Kim Lân. Bài Phân tích sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tác phẩm. Cùng tìm hiểu nhé!
1. Tóm tắt và bố cục của truyện ngắn vợ nhặt:
1.2. Tóm tắt:
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra, lan rộng khắp cả nước, người chết như rơm, người cũng sống uể oải như bóng ma. Tràng là một anh chàng xấu xí, thô lỗ, không vợ, Tràng sống ở xóm trọ. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống với mẹ già. Một lần kéo xe đón Liên lên tỉnh Trang quen một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Trang không còn nhận ra cô gái ấy nữa, bởi vẻ ngoài đã mất và mong muốn làm cho cô khác đi. Trang mời cô gái một bữa ăn, cô gái ăn ngay một chiếc bánh bông lan. Sau câu nói nửa thật nửa đùa, cô gái theo anh về làm vợ. Việc Tràng lấy được vợ khiến cả làng ngẩn ngơ, nhất là bà cụ Tứ (mẹ Tràng) cũng không khỏi bất ngờ và lo lắng, nhưng rồi bà cụ cũng hiểu ra và chấp nhận con dâu của mình. Trong “bữa cơm” đón dâu mới, họ chỉ có một bữa cháo kèm theo nồi cháo cám dành cho cô dâu nhân dịp mâm cỗ đón dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết buổi sáng sau khi tiếng trống đánh xong, quạ bay như mây đen. Thị kể về việc Việt Minh phát hiện ra Tết Nhật và nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới.
1.2. Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu đến “hai tay bưng sọt, mặt tội nghiệp”): Cảnh Tràng dẫn vợ về nhà.
– Phần 2 (tiếp theo “đẩy xe về chung”): Thuyết minh truyện Chờ Vợ
– Phần 3 (tiếp theo “nước mắt cứ chảy ròng ròng”): Đoạn gặp giữa bà cụ Tứ và tân nương
– Phần 4 (còn lại): Cảnh sáng hôm sau ở nhà Tràng
Xem thêm: Mẫu mở bài Vợ nhặt siêu hay (trực tiếp, gián tiếp, nâng cao)
3. Bài Phân tích sự sống với cái chết trong Vợ nhặt hay nhất:
Trên cái nền hiện thực của nạn đói, bằng cách xây dựng truyện lạnh lùng độc đáo, miêu tả sâu sắc diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật và sáng tạo những chi tiết, hình ảnh độc đáo, người viết truyện này đã cô đọng để ghi vào lòng người đọc những bức ảnh nghệ thuật khó quên. Câu chuyện xoay quanh cuộc đối đầu giữa sự sống và cái chết của những người nông dân trong cơn ác mộng kinh hoàng năm ấy.
Khoảng thời gian của câu chuyện là một thôn xóm vắng người, bên sông, gần chợ heo hút. Từng cơn gió từ cánh đồng được đưa vào, bị cắt đứt. Hai bên đường, ít người đi ngang qua, không một ngôi nhà nào bị châm lửa. Điểm vào là tiếng quạ thê lương thỉnh thoảng lại hót líu lo trên cây gạo trong sân chợ, tiếng người ra vào buồn rười rượi từ những ngôi nhà có người đang chết đói. Ở đây không có gas, mùi hôi thối của rác và mọi người bị bệnh. Xen kẽ với đó là tiếng thở hổn hển của những đống gỗ được phát hiện trong những ngôi nhà của người chết.
Bằng sự kết hợp của các yếu tố hình ảnh, âm thanh và mùi vị, nhà văn Kim Lân đã tạo ấn tượng về một không gian truyện điển hình với màu sắc chết chóc. Để rồi như một cận cảnh, ống kính của người viết dừng lại ở một bữa ăn no đến thảm hại.
Ở đó, miếng ăn dường như không còn dành cho con người nữa. Ở giữa cái thúng rách nát là một đĩa rau rối, một đĩa cháo muối. Nồi cháo nổi lên, chỉ chia cho mỗi người đội mũ trắng, hai bát đã cạn. Mẹ già chạy vội vào bếp, bưng ra một cái nồi nghi ngút khói, gọi đồ ăn. Món ngon lạ lùng với anh thực ra là cháo cám, thứ mà người ta nhìn lúc đói, mắt thâm quầng, ăn không nổi vì đắng và hận trong cổ họng.
Cái đói cái chết nắm tay nhau càn quét xóm ngụ cư. Người ta lũ lượt kéo nhau lên mặt nước xanh xám như những bóng ma, nằm ườn trong chăn. Người chết như rơm rạ. Không buổi sáng nào người dân trong làng đi chợ, đi làm đồng lại không gặp ba xác chết nằm bên vệ đường.
Cái đói có sức tàn phá khủng khiếp cả về hình thức lẫn giá trị sản phẩm của con người. Khuôn mặt nào trong xóm cũ cũng hằn vết đói. Những đứa trẻ ở khu phố này ngồi ủ rũ dưới những con ngõ, không nhúc nhích. Những ngày như Tràng – một thanh niên khỏe mạnh trong xóm, giờ chỉ lê từng bước đã mỏi nhừ. Khóc trong chạng vạng là dáng vẻ tả tơi của ông – chiếc áo sơ mi nâu xộc xệch xuống một bên cánh tay, cái đầu trọc lóc chúi về phía trước.
Cái tàn nhang, tàn nhang đáng sợ nhất của cái đói đối với con người còn ở thị, người vợ mà Tràng đã gom vào trong cái chăn của cái đói. Người phụ nữ này không có tên. Nhà văn gọi nhân vật là đàn bà, là thị. Có lẽ số phận đã định, những người như bà không xa lạ gì trong nạn đói đó. Thị mặc bộ đồ rách rưới, áo tả tơi như tổ đỉa, gầy guộc. Nhất định là đi, trên khuôn mặt thối rữa xám xịt của nàng chỉ nhìn thấy hai con mắt. Chắc đói lâu ngày nên vì miếng ăn mà trở nên lép vế, trơ trẽn.
Chỉ với một câu hát tầm tầm của Tràng đơn giản – nhưng là một câu hát với lời hứa ẩm thực, muốn ăn mấy dăm bông cơm trắng này! Ra dắt cái xe bò kéo theo đi nè!, thị đứng dậy chạy lại đưa cho Trang rồi nháy mắt cười. Nhưng lần đó cô không được ăn. Lần thứ hai gặp Tràng, nó chạy đến chỗ Trang đang đội nắng đứng trước mặt Tràng soi mói buộc tội: – Diệu! Chỉ là loại người nào!; – Hôm nay leo vào hôn mà mất mặt quá. Và lần này, cô ấy được ăn thật. Trước đồ ăn, hai con mắt sát khí của thị lập tức sáng lên, nàng nói: – Ăn đi! Ăn, ăn, không sợ gì cả. Thị ngồi xuống, ăn cặp bánh tráng trộn và bắt chuyện. Ăn xong, nàng đưa đôi đũa ngang miệng thở phào nhẹ nhõm: – Ha, ngon quá!
Có ai biết, người đang rơi vào cảnh ăn bám ấy lại là một người phụ nữ hiền lành, đứng đắn. Dục vọng đã phá hủy nhân cách của cô, buộc cô phải từ bỏ ý thức, quy tắc, thể diện và sự xấu hổ. Mút làm cho người ta chát, bí; cái đói khiến người ta không biết mặt mũi; tiếng gầm của Dạ dày trống rỗng làm cho một người đàn ông trở nên trơ trẽn làm sao! Thái độ và hành động của cô trước đồ ăn khiến chúng tôi ứa nước mắt. Nhưng trong sự hấp hối và hấp hối, trong vòng vây của cái chết, sự sống không ngừng trỗi dậy và trỗi dậy. Từ lúc nó kẽo kẹt, nó rón rén lên, có lúc nó liệt kê như một phép màu.
Vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói, khi cả xóm bao trùm bởi không khí lạnh lẽo của sự chết chóc, khi sự sống đối mặt với cơn ác mộng chết chóc thì một buổi trưa hàng xóm thấy Tràng về nhà cùng một người phụ nữ nữa. Sự xuất hiện của cô ấy đã thay đổi mọi thứ một cách đột ngột, lạ lùng, thắp lên một ánh sáng rực rỡ trên nền bóng tối rùng rợn của cái đói và cái chết; Thắp sáng ước mơ thay đổi số phận cho bao kiếp người leo chợ chiều nay. Chỉ là người vợ nhưng nàng thực sự là vầng hào quang, vầng hào quang ấm áp, tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu, sự hy sinh quên mình và những điều kỳ diệu (Nguyễn Thị Thanh Cảnh).
Vợ nhặt có thể coi là một tổ hợp từ rất đặc biệt chỉ có trong bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái đói đã dẫn đến cảnh bi hài kịch, tính mạng con người trở nên rẻ rúng, có thể nóng nảy như một con người. Chúng tôi nhìn vào bất cứ thứ gì. Nhặt cũng chẳng được gì, nhưng vợ được vinh hạnh. Chính từ tư cách là một người vợ của anh ấy mà sự xuất hiện đã được xác định. Và cô dâu ấy đã đến xóm trọ mang theo một luồng gió mới, một tia nắng mới, thắp lên hơi ấm, hy vọng và niềm tin vào ngày mai.
Giữa đám đông các cô gái ngồi ở cửa kho, cô vẫn dáng tròn trịa, hơi e thẹn, nhưng chỉ sau khi cô đồng ý gánh hàng ra xe rồi cùng Trang trở về, cô đã khác hẳn. Trên đường về Trang đi được chừng ba bốn bước thì đã rón rén, chùn bước. Thị xách chiếc thúng nhỏ, đầu hơi cúi, chiếc nón tả tơi nghiêng che nửa khuôn mặt. Che để dỡ hàng, hoặc che để theo dõi số bộ phận từng bước?
Sự xuất hiện của người đàn bà đi bên Tràng trong buổi chiều xua đi những khuôn mặt ủ rũ, xám xịt của những người hàng xóm đang chìm trong bóng tối vì khát nước. Khuôn mặt trầm ngâm mệt mỏi của Trang giờ đây mang một vẻ hưng phấn khác thường. Mỉm cười với chính mình và đôi mắt sáng ngời. Lũ trẻ thấy lạ chạy ra xem, có đứa ngửa cổ kêu: – Thằng Tràng! Vợ chồng diễn hài. Người trong xóm cũng lạ lắm – Họ còn đứng ở ngưỡng cửa nhìn ra nói chuyện. Khuôn mặt hốc hác của họ đột nhiên hiện ra. Thị về làng mang cái mát xa lạ vào cuộc sống khát khao và đen tối nơi đây.
Về đến nhà, bước chân vào ngôi nhà hoang, lom khom trên mảnh vườn vun xới, nhặt cỏ dại, chị cố nén tiếng thở dài. Có rất nhiều hổ, buồn và xấu hổ trong bộ ngực phẳng đó. Tại đây, chị cũng chỉ giám còng ngồi thu lu cạnh giường, tay ôm chiếc giỏ, vẻ mặt chán nản. Thị rất ý thức về hoàn cảnh của mình. Cái tư thế trùm chăn ngủ, chỗ lõm đó là trạng thái rối bời trong lòng Mị: chuyện về làm vợ Tràng vừa thực vừa hư; Thân phận ích kỷ, trôi dạt kiếm ăn, liệu có tìm được chốn nương thân?…
Rồi cô gặp mẹ Tràng – người sẽ quyết định số phận của cô trong chính ngôi nhà này. Người mẹ tội nghiệp vô cùng bất ngờ và không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy sự xuất hiện của một người phụ nữ trong nhà mình. Biết bao câu hỏi ập đến đầy mê hoặc – Thế quái nào lại có đàn bà? Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của con trai mình như vậy? Sao em lại gọi anh bằng u? Không phải con Đức. Đó là ai?… Ồ, sao vậy?
Đọan, Tràng bước lại gần nói với mẹ: – Nhà con, nó về làm bạn với con đi mẹ ơi! Chúng ta phải có định mệnh để sống cùng nhau… Đó chỉ là một con số… Bây giờ bà lão đã hiểu. Lòng người mẹ nghèo cũng thấu hiểu biết bao cơ cực vừa xót xa, vừa đáng thương cho số phận con mình. Bà lão nhìn người phụ nữ chằm chằm, trong lòng cũng tràn ngập thương hại. Trước mặt bà lão, người hầu gái mặt mày râu ria xồm xoàm với vạt áo tơi tả, chiếc ô đứng nguyên một chỗ.
Vâng, điều này cũng đã được chấp nhận. Bà Tứ xem cô như tân nương. Bà nhẹ nhàng nói với chị: – Thôi thì các con cũng có duyên với nhau, chị cũng mừng… Bà cũng hạ giọng tỏ ra thân mật: – Thôi, làm vài mâm cũng được, nhưng mà. nhà mình nghèo, thời buổi này chả ai lừa. Chìa khóa để các bạn hòa hợp với nhau là bạn hạnh phúc. Đói năm nay. Bây giờ chúng ta biết nhau, rất thân…
Sau một đêm nàng về làm vợ Tràng, sau một đêm nàng được gả về nhà bà Tú, ngôi nhà đó như có một phép màu. Ngôi nhà thu mình trên mảnh vườn cày um tùm, nay đã được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp. Chiếc áo rách như tổ đỉa vẫn vắt một góc nhà, giờ được đưa ra sân hồng. Hai xô nước bỏ dưới gốc ổi đã bịt kín cả năm trời sắp đặt. Đống mùn trải trên lối đi sạch sẽ. Ngoài vườn, mẹ đang xúc những bãi cỏ mọc um tùm, ngoài sân, cô con dâu đang quét sân, tiếng chổi xào xạc dưới đất. Tất cả đã thay đổi.
Xung quanh thay đổi, tình cảm con người cũng thay đổi. Lựa chọn cảm động nhất vẫn là Trang. Những người tìm kiếm tình yêu được gắn vào một ngôi nhà xa lạ. Anh ấy đã có một gia đình. Anh ấy và vợ sẽ sinh con ở đó. Ngôi nhà như một nơi che mưa che nắng. Một nguồn vui phấn khởi tràn ngập trong lòng. Bây giờ tôi mới bắt đầu học, tôi phải chăm sóc vợ con trước.
Trong mắt Tràng bây giờ, cô ấy cũng khác lắm, rõ ràng là một người phụ nữ hiền lành, đứng đắn. Mẹ Trang cũng dịu dàng, đoan trang khác hẳn mọi ngày, gương mặt ủ rũ nay rạng rỡ hẳn lên. Bà cụ kể chuyện gia đình cho con dâu nghe. Bà già kể toàn chuyện vui, chuyện vui này chuyện nọ, có tiền mua cặp gà thì sao… Tôi cũng không ngoảnh lại nhiều nhưng có gà cho tôi xem… A không khí trong nhà đầm ấm, hòa thuận Trong ngôi nhà ấy, chưa bao giờ trong ngôi nhà này, hai mẹ con lại đầm ấm, hòa thuận đến thế.
Tình yêu thương là cội nguồn của sự ấm áp và hạnh phúc, ngay cả trong những điều giản dị hàng ngày. Thay vào đó, hạnh phúc là dành cho con cái chúng ta. Hạnh phúc đưa con người đến gần nhau hơn, là tia nắng ấm áp cho nhau. Tư tưởng nhân đạo của Kim Lân nhẹ nhàng truyền đến người đọc.
Vẫn đó, những bữa cơm thương tâm ngày nào, những tấm chăn cho dân nộp thuế vẫn còn đập thình thịch, hối hả ra khỏi đình làng, trên những cây tiêu cao vút đầu chợ, đàn quạ hốt hoảng bay từng đàn. Những đám mây lơ lửng trên bầu trời như bóng tối. những đám mây, nhưng câu chuyện về nạn đói đã rẽ sang một hướng khác. Theo lời con dâu – Trên Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa. Người dân còn phát hiện ra kho hàng Tết của người Nhật để phân phát cho người đói. Trang biết về Việt Minh. Trong tâm trí đoàn là cảnh dân nghèo đổ xô lên đê Sộp. Có một lá cờ lớn màu đỏ ở phía trước. Lá cờ đỏ ấy vẫn phấp phới trong tâm trí Tràng…
Hình ảnh cuối truyện đã gieo vào lòng người đọc một tình yêu thương tha thiết, rằng Tràng và gia đình nhỏ của mình, rằng hàng triệu con người khốn khổ sẽ có lá cờ đỏ dẫn đường giành cơm ăn áo mặc. Đây là điểm khác biệt giữa Vợ nhặt với các tác phẩm khác viết về đề tài nông dân trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong truyện ngắn Vợ Nhặt, hành trình kiếm sống thoát nạn, chết đói của những người nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945 của nhà văn Kim Lân bị dồn nén đến mức căng thẳng, đến cùng trong tiết trời khắc nghiệt. câu chuyện độc quyền. Tình yêu lãng mạn, thất thường từ lúc Tràng yêu vợ được dựng nên trong hoàn cảnh đối đầu gay gắt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa hơi ấm của tình người. và cái lạnh, cái chết. , mùi hôi của cái xác chết …
Đặt nhân vật vào một vùng đất hoang để thử thách sức sống của con người, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc quan tâm, trân trọng và tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của con người. Với giọng trầm buồn, Kim Lân đi sâu vào diễn biến nội tâm phức tạp, tế nhị của từng nhân vật, bao trùm cuộc đấu tranh giữa sự sống và cái chết, giữa ích kỷ và vị tha, giữa vị tha và tha thứ. . hiện thực và ước mơ… trong những hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã mới phát hiện ra ánh sáng ở mỗi con người, mỗi thân phận, đó là tình người. Tình người sẽ xua tan đi sự u ám, thắp lên niềm vui và hy vọng chinh phục những con người vượt qua khó khăn, sống tốt cho ngày mai.
Sức sống của một tác phẩm văn học phải được xây dựng từ nền tảng của những giá trị nhân văn sâu sắc, của những ngọn đèn và tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Vợ Nhặt của Kim Lân là một tác phẩm như thế.
Xem thêm: Cảm nhận về chi tiết bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt siêu hay
4. Bài Phân tích sự sống với cái chết trong Vợ nhặt ấn tượng nhất:
Thảm họa nạn đói năm 1945 thật khủng khiếp. Không chỉ đói trong làng, mà nửa trong nước. Từ Bắc Trung Bộ trở vào, từ thu đông 1944 đến xuân hè 1945 có hơn hai triệu người nằm xuống.
Kim Lân đã chọn bối cảnh đó cho truyện Vợ Nghèo. Không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng lại là những dòng rất lạ trong chap từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao, tôi thấy thương ứa nước mắt. Cái đói, cái chết ở Kim Lân khiến ta rợn người, thẫn thờ.
Nó cho thấy màu sắc: màu xanh xám của cái chết, màu đen đầy bầu trời của lũ quạ. Mùi hôi: gây bệnh cho người, bốc mùi nhanh chóng trong nhà có người chết. Âm thanh: Tiếng quạ buồn trên cây gạo, tiếng buồn của gió đưa vào nhà thưởng thức, như từ dưới âm ly. Cuộc sống ở khắp mọi nơi, cuộc sống trong khu phố được bao quanh bởi những màu sắc, mùi vị và tiếng nói đó. Không chết thì ủ rũ, tắt thở, than thở tuyệt vọng. Đến khi Tràng quay người lại với cái lưng to như cái eo, vừa bước từng bước, đầu chúi về phía trước thì nỗi lo âu lướt qua người chắc xuống. Cô con gái nhanh nhẹn, bơ phờ, mới mấy ngày tuổi, xơ xác, gầy gò, xanh xao. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, là hiện thân đầy đủ nhất của cái đói, cái chết của vùng quê. Không gian toàn thân bị tàn phá, hoang tàn, tử khí tràn ngập khắp nơi. Cuộc sống chỉ biết luồn lách, chui rúc.
Đó là lý do tại sao tất cả những điều sai trái đã xảy ra: kết hôn. Không nghi thức gì cả. Cô gái đói đã lâu, Tràng mời, cô ăn bánh, Tràng bảo cô về, cô đi theo. Tình thế thật nghịch lý: lấy chồng thì ít khi cuộc sống vẫn bình thường, khi ăn còn làm được như mẹ Tràng, nhưng trong cái cảnh con chết đói này, bản thân mình cũng chưa chắc sống nổi. Nhưng cưới xin là chuyện trọng đại, sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, truyền đời. Điều tuyệt vời cho cuộc đời của người đó đã xảy ra nhanh chóng ngoài sức tưởng tượng, nó dường như không có thật. Cuộc đời có cưới có tang, cũng rất chóng vánh. Đây cũng không phải là chạy trối chết. Nhưng rõ ràng là sự thức tỉnh của cái đói và cái chết. Thế là đói chết buông xuôi. Đường về nhà của họ như đi xuyên qua âm phủ, thấp thoáng trên họ là những hồn ma, bóng ma, chào đón họ là những đàn quạ, quạ đen; vọng vào nhà, len lỏi vào giấc ngủ của họ là tiếng kêu thảm thiết, đau đớn, càng về sau, người ta càng rõ là trong nhà có người chết; Về đến nhà, cảnh nhà tan hoang, lụp xụp, hoang tàn, khô héo, bữa cơm chỉ có cơm nguội và đầy cám dỗ.
Cái chết của cái chết sau trận chiến quyết định với tất cả sức mạnh hủy diệt của nó. Nghĩ như vậy, vợ chồng này chỉ có đưa nhau vào chỗ chết. Nhưng không, họ đã sống sót, hơn thế nữa, đã chiến thắng với một sức sống thân thiện phi thường và tạo ra một sự biến đổi kỳ diệu. Tất cả đều khác nhau. Trẻ em khác, người lớn khác. Bên kia, bà lão cũng khác. Còn cô gái thì sao? Chính tác giả đã gửi sinh lực của mình vào cô gái. Nó tỏa ra từ cô ấy, như thể cô ấy đã được trao cho một chiếc ghế thần kỳ để tạo ra tất cả những thay đổi đột ngột, kỳ lạ, làm nổi bật cái phông tối rùng rợn của cái đói, cái chết, sự tươi sáng, điều ước. Ước mơ thay đổi số mệnh cho mọi người, cho chính mình. Cô là vợ nhặt nhưng lại là một hào quang, một luồng khí ấm tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và mầu nhiệm.
Vợ nhặt là cụm từ mang nhiều nét đau thương nhưng đầy ý nghĩa. Đó không phải là tên, nhưng đó vẫn là cùng một cô gái. Chỉ là một chút bất thường và kỳ lạ. Người vợ buồn khi nghe điều đó, bởi vì cô ấy sẽ không chấp nhận nó ngay cả khi cô ấy không kết hôn. Đây lại là một người vợ bù, như một vật lưu lạc hay lưu lạc nay bịa ra. Có thể đó là Dậu hoặc Tý. Chỉ cô ấy, sau đó là người phụ nữ, đó là cơn lốc. Kể về cơn đói, bỏ xứ đi kiếm ăn, biết đâu ngày mai không còn cắm cúi xác bên vệ đường, tên sẽ ra sao. Nhưng sự vô danh đó không phải là vô nghĩa. Để chỉ sức sống, sự sống cần đặt tên cho chúng là gì? Chỉ biết đó là đàn bà, đàn bà. Không ngờ trong cơn thập tử nhất sinh, vợ ông lại là một thế lực có truyền thống dày dặn hàng năm. Nhặt là không có gì, và vợ là vinh dự. Chữ “an” trong chữ Hán có chữ nữ, có nghĩa là phụ nữ vào nhà thì bình yên, hạnh phúc. Nên tên nó chưa rõ ngay: ôm bằng lái con nít, đoán già đoán non hàng xóm rồi ré lên, điên cuồng cầm chai dầu nhớt, dám phạm tội. Mới đọc đã thấy: vợ mới, vợ mới.
Chính từ cách chiều vợ, cô gái đã dần thay đổi. Trong số các em và các em, em nằm nghiêng thoải mái, cuộn tròn người rồi chạy nhốn nháo, kể cả sau khi ăn búp bê bánh kem, em hơi nhút nhát, em bế búp bê đi theo, ở nhà và rất ngộ nghĩnh. là tự nhiên. Chính vì vậy mà sau khi nghe tin Tràng đã cùng cô đi về với nhau, cô đã thật sự để rồi từ ngang dọc, hồn nhiên mà thay đổi theo từng bước chân trên đường về nhà Tràng.
Đùa chơi quả có khác. Đi theo, không biết để làm gì, nhưng nó nghiêm túc, nghiêm túc. Đi sau ba bốn bước, đầu hơi khom, mũ che mặt. Không nhất thiết vì ai đó đã kiểm tra. Chỉ cần đối mặt với trái tim của bạn: một vấn đề của số phận, không phải là một trò chơi. Không rơi nước mắt mà cứ rón rén, e Mục đích như một cô dâu khi bước ra khỏi nhà mẹ đẻ, ngoan ngoãn, dễ thương, rất nữ tính. Đi thêm vài đoạn, tôi thấy chị Đan Hoàng trình diễn chức năng phân loại vợ. Mệt (nó còn non lắm), mê (nó vừa phải), rồi trút cơn mắc cỡ, nó liền ói ra gió, tát vào lưng Tràng… thế là nó bước vào. Tuy nhiên, khi bước vào nhà, cô ấy cứ ngồi xổm ở mép giường, tay ôm chặt chiếc giỏ, vẻ mặt thất thần. Hóa ra đến bây giờ cô mới suy nghĩ thấu đáo về hoàn cảnh của mình. Đây là quyết định cuối cùng cho danh tính của cô. Cô đói và phải tìm nơi trú ẩn, nhưng liệu đây có phải là nơi cô mong đợi? Bà nội vẫn chưa về. biết ý cô ấy là gì. Dáng ngủ rụt rè, bấp bênh như tâm trạng rối bời của nàng. Cuộc hôn nhân đột ngột của cô đã bắt đầu, nhưng nó dường như không có thật sau đó. Làm vợ, làm dâu, nhưng thế nào? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất đời người con gái mà trốn ra ngoài thế này sao? Thật đáng thương, thật đáng thương cho chính mình! Nó xuống cấp rồi, tội nghiệp con bé không biết tính toán. Tôi yêu cầu cô ấy nhìn thông cảm, an toàn và bình tĩnh để cô ấy cảm thấy thoải mái. Và sau một đêm làm vợ, sáng ra cô đã trở thành một đứa trẻ hoàn toàn khác. Chắc chắn cô ấy là một người vợ tốt, chu toàn mọi việc, tạo cho gia đình một cuộc sống mới.
Người vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi mà quan trọng hơn, sắc sảo hơn mà còn như một luồng gió mới thổi hơi ấm cho mọi người, mọi nơi, những đứa con đang sống trong cảnh nghèo khó. cái chết.
Bà vừa xuất hiện cạnh Tràng ở đầu làng, cả làng như tranh nhau sống. Nhà cửa hỗn loạn, nửa đêm chợt tỉnh giấc. Lũ trẻ ủ rũ chẳng buồn đánh thức chúng nó nhanh chóng chạy theo Trang và chẳng hiểu sao Linh lại reo lên thích thú, vợ và hài kéo nhau ra cửa, mặt tối sầm, chống chế. Chắc chắn người thăm dò tốt hơn là thở và bày tỏ lòng mình. một cách thông cảm, rung động khi nhìn thấy một người đàn bà thẹn thẹn hay đáo để.
Nói gì Tràng! Mở đầu là trò đùa nông dân trẻ vui nhộn. Thấy cô gái sau mấy ngày mặt xám ngoét, mất hết sắc vóc, anh liền mời, cô xơi ngay, thở không ra hơi như đói lâu ngày, anh nửa đùa nửa thật, nếu anh quay lại, cô đi theo anh một chút. đánh mà chặt phát: kệ. Tất cả bắt đầu với chiếc kệ này. Tác giả nói: “Trong lòng Tràng bây giờ chỉ có Nghi là phân biệt với đàn bà”… Đúng vậy. Trước hết, một người suy nghĩ nghiêm túc, rất tốt bụng từ tận đáy lòng. Người phụ nữ cuốn anh từ hư ảo đến chân thực, mang đến cho trái tim anh một luồng sinh khí mới. Còn bản tính thích hưởng thụ của một thanh niên chưa vợ như anh, làm sao không âm ỉ trong tiềm thức một sự xúi giục rất con người? Nên quên đi nỗi lo, là tủi nhục, là đêm tối, quên đi cả những ngày phía trước. Cô ấy trông như đang cười (trong truyện đếm đến 10 lần, mỗi lần cười khác nhau), vẻ ngoài vui vẻ khác thường, đôi mắt sáng long lanh. Và như thường lệ khi ở bên cạnh một người phụ nữ mà anh biết là của mình, anh cảm thấy có gì đó rất lạ, nó mơn trớn làn da, cảm giác như một cái vuốt nhẹ sau gáy. Anh thấy cần bày tỏ lòng mình bằng một cử chỉ, một câu nói yêu thương, nhưng anh thấy ngượng không làm được gì. Điều có thể chắc chắn là việc anh ta chê vợ đi ngủ và yêu đương là nhân cách! Sự thay đổi sâu sắc nhất ở anh là sau đêm đó, anh thấy lạ với chính mình. Như có cái gì chui vào người, anh cảm thấy lúng túng và lơ đãng như từ trong mộng đi ra. Anh cởi trần chạy ra sân, muốn làm một điều gì đó cho xứng đáng là một người đàn ông đã có gia đình… như có một sức sống mới rạo rực trong người.
Bà mẹ anh cũng như có nước cam lồ rưới vào, khác hẳn. Bà như trẻ lại, nghĩ đến cô con dâu ngọt ngào một bồ hai bồ, một con hay một con, rồi đầy toan tính, chia lìa vợ chồng buồn rầu mua gà về nuôi. , và bơi trong sân. Ai đã từng phì cười với nồi cám mà mẹ gọi là chè vợ đãi chồng mới cưới khi bữa tân hôn chỉ có cháo và hạt cơm trên chiếc mâm vải, một bữa cơm còn gì bi đát hơn. Ôi tấm lòng của những người mẹ! Tại sao nó nói như vậy? Chỉ có mấy chữ, sự thật trải qua một đời với giọng nói dịu dàng, yêu thương bày tỏ với cô gái là thay mọi lễ giáo, giải tỏa mọi mặc cảm, đã là mẹ con rồi. , con dâu hòa thuận, được mẹ chồng yêu chiều hết mực. Cháo đã biến thành một bữa tiệc. Đắng cay, ngậm trong miệng nhưng ngọt ngào trong tim.
Buổi sáng hôm ấy như một ngày Tết, một ngày hội giữa sự nhọc nhằn, chết chóc, tiếng ầm ĩ của mẹ con Tràng. Có lẽ có một nàng tiên ở đó. Chỉ có một cô dâu, một người vợ mới. Sao mà như có phép màu, mọi thứ từ sân, bể, rác, quần áo, đều đâu vào đó, sạch sẽ, ngăn nắp, thông thoáng, ánh ban mai, tiếng đập phá của sân, dị nhân cũng vậy. vào giai điệu tai. Từ người phụ nữ đến gia đình, cuộc sống như ánh bình minh lan tỏa, ấm áp, chan hòa, tràn đầy hy vọng và niềm tin. Khỏi phải nói trước những cuộc biểu tình với lá cờ đỏ trước mặt báo hiệu sự quay đầu của mọi cơ thể, bất kể tiếng gà gáy vẫn mò mẫm từng hồi, bất chấp tiếng trống, tiếng khinh miệt, tiếng giễu cợt bên ngoài.
Cuộc sống được biến đổi, đối mặt với cái chết, nạn đói và biến chứng vàng chứng tỏ mình bất tử, thể thao và truyền giáo. Đó là chỗ sâu xa dụng ý của người viết. Mở đầu là tối sầm. kết thúc là bừng bừng thắm đỏ, nén xâu xúc động một tí tách hóm hỉnh đằng khác trong giọng điệu, đảo trước ra sau cho lạ lùng câu chuyện ở kết câu, lặng lẽ gài cô gái vào vai kỳ diệu…. nghĩ cho cùng đều nhằm tô đậm dụng ý tư tưởng nghệ thuật ấy.