Tác phẩm “Bài ca ngất trời” của Nguyễn Công Trứ là tác phẩm nổi tiếng thời cận đại, thể hiện rõ con đường thăng trầm với sự nghiệp làm quan của Nguyễn Công Trứ. Tác phẩm khá phổ biến trong các đề thi Ngữ văn lớp 11.
1. Soạn bài về tác giả Nguyễn Công Trứ:
Nguyễn Công Trứ sinh năm 1788 tại làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, mất năm 1858, thọ 81 tuổi, lấy hiệu là Hy Văn. Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống trong cảnh nghèo khó, năm 1819 thi đỗ và được bổ làm quan.
Nguyễn Công Trứ là người thích lối sống tự do, phóng khoáng. Anh cũng là người có tài, ham học, có chí và rất muốn lập công danh. Ông đi thi nhiều lần, trượt vẫn không nản, 41 tuổi mới đỗ nghị nguyên, 42 tuổi làm quan (chức sự ở sứ).
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ gói gọn trong những thăng trầm của sự nghiệp. Ông nhiều lần được thăng quan vì có thành tích và chiến công về quân sự và kinh tế, đến chức Thượng thư, Tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị trừng phạt, nhiều lần bị giáng xuống 3-4 cấp như năm 1841 ông bị kết án bỏ tù rồi được thả, năm 1843 ông còn bị bắt làm lính thái thú, v.v.
Tác phẩm của ông tuy không nhiều nhưng chứa đựng những vấn đề quan trọng, hay và phức tạp, là nguồn gốc của nhiều đánh giá và tranh luận trong giới nghiên cứu, phê bình văn học. Tác phẩm của ông chủ yếu thuộc thể loại hát nói và thơ Nôm.
Thơ ông chứa đựng nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái tâm thức của một thế hệ nho sĩ như Nguyễn Công Trứ. Nhìn chung, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:
+ Chỉ nam.
+ Nghèo và thái độ, tình yêu.
+ Triết lý hưởng thụ.
2. Soạn bài về bài hát “Khúc hát tuyệt vời”:
Bài ca ngất trời là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ. Bài thơ được tác giả sáng tác vào năm 1848, sau một thời gian ông về quê. Tác phẩm được viết theo hình thức hát nói nhằm gửi gắm những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về cuộc đời làm quan; khẳng định bản lĩnh cũng như triết lý sống nhân văn.
3. Bố cục tác phẩm Khúc hát bầu trời:
Cách trình bày:
– Phần 1 (6 câu đầu): Ngất ngây nhìn cuộc sống khi làm quan.
– Phần 2 (10 câu tiếp theo): quan niệm sống ngất ngưởng lúc về hưu.
– Phần 3 (còn lại): cuộc sống khi viên chức về hưu.
Giá trị nội dung:
– Qua thái độ xuất thần, tác giả muốn thể hiện một lối sống tốt đẹp, một bản lĩnh cá nhân trong khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên quyền: Hết lòng vì vua, vì nước, bất chấp mọi gian truân. – được – mất, khen – chê trong cuộc sống.
– Đoạn thơ cũng cho người đọc thấy được sự tự ý thức của tác giả về giá trị của bản thân: tài năng, vị trí, phẩm chất – một con người tài hoa với những giá trị mà không phải ai cũng có được.
Giá trị nghệ thuật
– Tác phẩm được viết theo thể loại hát nói, mang phong cách tự sự, với hình thức tự do, phóng khoáng, đặc biệt về vần, nhịp phù hợp với cách thể hiện của cá nhân.
– Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hệ thống từ Hán Việt với từ Nôm thông dụng trong đời sống hàng ngày.
4. Soạn một số câu hỏi về bài hát “Khúc hát tuyệt vời”:
Câu hỏi 1:
– Choáng ngợp được dùng 4 lần ở cuối câu 4, 8, 12 và câu cuối
– Mỗi thời điểm có một ý nghĩa khác nhau:
+ Từ “ngông” thứ nhất nói đến tài thao lược, quân sự của Nguyễn Công Trứ.
+ Từ “ngông cuồng” thứ hai chỉ sự trơ trẽn của tác giả dù đã về hưu
+ Từ “quá đáng” thứ ba khẳng định sự ăn chơi trác táng của Nguyễn Công Trứ
+ Từ cuối “ngỡ ngàng” thể hiện sự vượt trội của tác giả so với mọi người trong buổi chiều
Trong bài thơ, từ “ngông” được dùng với nghĩa rộng hơn, mới lạ và rất hay.
Câu 2:
– Tác giả biết làm quan là một sự gò bó, mất tự do.
– Nhưng tác giả vẫn không ngại đem tài năng của mình vào ách nô lệ của danh lợi, thể hiện hoài bão vì dân vì nước, khẳng định tài năng của mình.
Câu 3:
– Nguyễn Công Trứ tự cho mình là xuất thần vì:
+ Biết tài năng xuất chúng, biết cống hiến vì nước vì dân
+ Nguyễn Công Trứ tự hào là người có cuộc sống năng động trong xã hội
+ Trong sự trói buộc của chốn quan trường, tác giả vẫn thể hiện lí tưởng, giữ vững bản lĩnh và nhân cách của mình.
– Ông khẳng định cá tính độc đáo, khác người, tự cho mình là cao thủ trong chốn quan trường, từ đó đề cao lối sống phóng khoáng, vượt ra khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc xưa cũ.
Câu 4:
– Tính tự do của hát nói so với thơ Đường luật: Cho dù có quy định về số câu, chia khổ thì người viết vẫn có thể phá cách theo ý mình để tạo nên tác phẩm tự do. về số câu, số chữ, vần, nhịp…
5. Phân tích văn mẫu bài “Khúc hát tuyệt vời”:
Nguyễn Công Trứ là một người tài hoa nhưng gặp nhiều thăng trầm. Ông để lại cho hậu thế khoảng 150 tác phẩm ở nhiều thể loại, nhưng thành công nhất ở thể loại thanh nhạc. Bài hát ngây ngất là một trong những tác phẩm thanh nhạc hay nhất thể hiện tính cách nghiệp dư của anh ấy.
Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông về quê dưỡng bệnh. Với thể ca tự do, phóng khoáng rất phù hợp để thể hiện tính cách, con người Nguyễn Công Trứ. Đoạn văn thể hiện rõ lối sống xuất thần của ông khi làm quan cũng như khi quan về ở ẩn.
Theo Nguyễn Công Trứ, xuất thần là biểu hiện của sự kiêu ngạo, thoát ra khỏi khuôn khổ của xã hội phong kiến chuyên quyền. Đây cũng là lối sống có bản lĩnh cá nhân, khác với cuộc sống và ngoài cuộc sống.
Sáu câu đầu thể hiện lối sống sung sướng khi ông làm quan. Trước hết, ở anh ý thức trách nhiệm trước cuộc đời và sự tự tin đầy kiêu hãnh của anh vào chính mình: Vũ trụ bên trong không hoạt động. Anh khẳng định mọi việc trên đời này đều do anh chịu trách nhiệm. Những lời đó cho thấy Nguyễn Công Trứ đã dám khẳng định ý nghĩa và vai trò của mình đối với đất nước. Thể hiện ở quan niệm làm quan rất khác người – vừa là danh vừa là nợ:
“Anh Hi Văn Tài Bộ đã vào lồng”
Anh nổi tiếng vì đây là cơ hội để anh chứng tỏ mình, chứng minh tài năng của mình hơn người, khác người, dùng tài năng đó để cống hiến, phục vụ đất nước. Nhưng đó là cái nợ bởi làm quan sẽ bị trách nhiệm ràng buộc, ông buộc phải chấp nhận cuộc sống gò bó, mất tự do khi ở cương vị. Là người có bản chất tự do tự tại khi bị gò bó vào khuôn phép cũng là một điều khó khăn đối với Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, vì tinh thần trách nhiệm và lòng kiêu hãnh, tự tin, Nguyễn Công Trứ đã gác lại thú vui riêng tư, theo đuổi con đường thi cử, đỗ đạt làm quan để thực hiện hoài bão giúp nước, giúp đời. Hoài bão cao đẹp ấy là hoài bão của biết bao sĩ phu trong xã hội bấy giờ.
Trong suốt những năm tháng cống hiến cho đời, ông đã làm được rất nhiều điều và ông tự hào về những gì mình đã làm, đã đóng góp:
“Khi thủ khoa, khi cố vấn, khi đốc Đồng
Kể cả chiến thuật khiến các tay chơi ngất ngây
Lúc hòa bình cờ tướng
Thỉnh thoảng tôi đến tư dinh Thừa Thiên.”
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau: Tham tán, Tổng đốc Đông, Bình Tây tướng quân… đều là những chức vụ quan trọng trong triều. Điều đó cho thấy tài năng hơn người của ông. Đồng thời thể hiện tinh thần trách nhiệm cũng như thái độ tự tin, tự hào của Nguyễn Công Trứ trước thành quả của mình. Những cống hiến đó không chỉ thể hiện sự ưu việt trong cuộc sống mà còn thể hiện tấm lòng yêu nước của ông.
Khi đang ở đỉnh cao vinh quang, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về làm quan cho đến lần thứ mười hai thì được nhận lời. Trở về quê hương, ông tận hưởng cuộc sống tự do, tự tại, ngao du sơn thủy. Hành động của ông khi viên quan về quê cũng thể hiện một tư thế xuất thần, khác người: Đồ Môn giải chia năm châu/ Tìm bò vàng đeo ngấu. Hành động đó như một lời thách thức đối với bộ máy quan lại đương thời, đồng thời khẳng định thái độ không còn hoài niệm về những phù phiếm do triều đình mang lại. Không chỉ vậy, sự xuất thần của ông còn thể hiện ở những nhu cầu, sở thích cá nhân mà ít nhà thơ khác thể hiện trực tiếp: một chốn bồng lai tiên cảnh: “Kìa núi non mây trắng bao phủ”. ; Du ngoạn vãn cảnh chùa chiền: “Tay gươm cung nên từ bi/ Thần tiên theo đỉnh mấy cô/ Bụt cũng nực cười anh ngất ngưởng” hay thưởng thức ca dao: “Khi hát, khi uống, khi Chén , khi nó là một phần của / Không Phật, không tiên, không vướng mắc”. Ngoài ra, điều đó còn thể hiện ở thái độ sống thanh thản, tự tại, không màng đến sự khen chê của dư luận: “Thắng thua thái bình thái quá/ Khen chê đều phơi phới đầu ngọn gió”. .
Ông hãnh diện, tự hào về lối sống ngất ngưởng của mình: Không trái, nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vương tôi cho trọn đạo. Nguyễn Công Trứ đặt mình ngang hàng với những bậc hiền tài, nhân cách lỗi lạc. Khẳng định sự khác biệt giữa cuộc đời và cuộc đời của lối sống ngất ngưởng: Ai vào triều đình như hắn? Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ là thái độ tự tin, mãn nguyện của Nguyễn Công Trứ về lối sống dũng cảm mà suốt đời ông trăn trở. Đây là lối sống có trách nhiệm với cuộc đời, cần phải tận tụy và cống hiến thì mới có kết quả. Tuy nhiên bên cạnh đó bạn cũng cần phải biết tận hưởng những niềm vui mà cuộc sống mang lại cho mình. Đó cũng là cách sống trung thực, dám là chính mình, vượt ra khỏi khuôn mẫu bon chen, lọc lừa.
Với thơ tự do ngôn luận, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện thành công lối sống xuất thần của mình. Lối sống đó thể hiện nhân cách tự do, phóng khoáng, lối sống lành mạnh, sự phá bỏ quan niệm sống, vượt qua sự khắt khe, giáo điều của lễ giáo phong kiến.