Hào khí Đông A là gì? Biểu hiện Hào khí Đông A trong văn học?

Hào khí Đông A là gì? Biểu hiện Hào khí Đông A trong văn học?
Bạn đang xem: Hào khí Đông A là gì? Biểu hiện Hào khí Đông A trong văn học? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Nhắc đến hào khí Đông A, chắc hẳn nhiều người đã không ít lần nghe đến nhưng luôn thắc mắc, hào khí Đông A là gì? Vì sao nó được phát huy mạnh mẽ nhất vào thời Trần? Vì vậy, bài viết sẽ đi sâu phân tích tinh thần Đông A và những biểu hiện của nó trong văn học.

1. Niềm tự hào của Đông A là gì?

Thực ra chúng ta có thể hiểu “tinh thần Đông A” chính là tinh thần của nhà Trần. Nhưng có câu nói xuất phát từ 2 lý do! Đầu tiên, theo cách chiết tự, chữ Trần là sự kết hợp giữa chữ Đông và chữ A nên có thể đọc là Đông A! Nhưng để hiểu cụ thể thì phải nói đến lý do thứ hai! Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu cũng như khách quan lịch sử, nhà Trần là triều đại phong kiến ​​đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tạo được sự đồng thuận cao nhất từ ​​trên xuống dưới, từ quân đến dân. , từ già đến trẻ hay từ trai đến gái. Lần đầu tiên toàn dân Đại Việt đoàn kết vì đại nghĩa, với tinh thần quyết đánh giặc ngoại xâm! Khi ấy, đứng trước kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, Đại Việt vẫn thể hiện tinh thần tự lực tự cường và lòng yêu nước vô bờ bến.

Tuy nhiên, hào khí Đông A không chỉ là của tinh thần nhà Trần mà còn là tinh thần của lịch sử chống giặc ngoại xâm nói chung.

Biểu hiện của tinh thần Đông A là tinh thần độc lập, tự chủ, yêu nước, chí hướng lập công cho nước; quyết tâm chiến đấu, quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù.

2. Bối cảnh lịch sử đằng sau câu nói “hào khí Đông A” thời Trần:

Vào những năm cuối triều đại nhà Lý, vị hoàng đế thứ 8 của nhà Lý là Lý Huệ Tông không có con trai nên đã lập Lý Chiêu Hoàng làm thái tử và truyền ngôi. Đây cũng là vị hoàng hậu duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, bà chỉ ngồi trên ngai vàng khoảng 2 năm rồi nhường ngôi cho họ Trần.

Trần Cảnh lúc bấy giờ là Trần Thái Tông, dưới sự sắp đặt của Thái sư Trần Thủ Độ đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần, mở ra một thời kỳ hào hùng mới trong lịch sử Đại Việt. Có thể nói đây là một trong những triều đại hùng mạnh và bùng nổ nhất trong lịch sử phong kiến ​​Việt Nam.

Trong suốt 175 năm trị vì, nhà Trần đã có nhiều thành tựu to lớn về văn hóa truyền thống, tôn giáo cũng như quân sự, nhưng nổi bật nhất là việc chỉ huy quân dân đánh thắng quân Nguyên Mông tới 3 năm. lần lượt vào các năm 1258, 1285, 1288). Và từ đây, câu nói “tinh thần Đông A” ra đời!

3. Thể hiện hào khí Đông A trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:

Hịch tướng sĩ được coi là bản anh hùng ca của Đại Việt. Những câu thơ như một lời tuyên bố mạnh mẽ, khẳng định chủ quyền, nền độc lập của nước Nam không ai có thể lay chuyển được ý chí đó.

Nhắc đến tinh thần Đông A không thể không nhắc đến bản anh hùng ca hào hùng này. Mượn tấm lòng của các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã vạch rõ âm mưu, sách lược thâm độc của quân xâm lược phương Bắc, chúng tham lam muốn đánh cả nước ta, hách dịch, tàn bạo. Lòng tham vô đáy, có khi lợi dụng thân phận Hốt Tất Liệt để xin lụa ngọc, có khi giả làm Vân Nam Vương thu vàng bạc, hòng vơ vét kho tàng có hạn. Chúng là những con cú diều, dê và chó, những con hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, đáng bị khinh bỉ và căm ghét đến tận xương tủy, đáng bị hủy diệt!

Lòng căm thù ấy như nghẹn lại khiến quả cam trong tay Trần Quốc Tuấn có thể vỡ ra lúc nào không hay. Bất bình trước sự man rợ và lòng căm thù tột độ của quân Mông – Nguyên khi ngày đêm xâm lược, tàn phá cuộc sống của nhân dân, dũng sĩ Trần Quốc Tuấn đã phải thú nhận: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm thức trắng. , vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ hận chưa lột da xé thịt, nuốt gan uống máu quân thù Dù trăm xác này phơi khô trên cỏ, và ngàn xác này bọc trong da ngựa, ta sẽ sung sướng.” Tỉnh tình yêu nước thiêng liêng như thổi vào sức mạnh của nó, khiến quân lính bây giờ chỉ muốn đập chúng ra từng mảnh để trả thù nước, đây có lẽ là đoạn thể hiện bi tráng nhất khúc ca hào khí Đông A. .

4. Thể hiện hào khí Đông A trong Bài thơ Tống Gia Hoàn Kinh của Trần Quang Khải:

Hoàn cảnh sáng tác:

Cuối năm 1284, quân Nguyên – Mông do Thoát Hoan chỉ huy ồ ạt tấn công nước ta lần thứ hai. Trước thế mạnh của giặc, Thượng hoàng Trần Thánh Tông và Vua Trần Nhân Tông phải rời kinh thành lánh nạn. Nhưng chỉ mấy tháng sau, tháng 5 năm 1285 (tháng 4 năm Ất Dậu), quân ta phản công bất ngờ, thắng lớn trong trận Hàm Tử, tháng 7 năm 1285 (tháng 6 năm Đinh Dậu), chúng tôi đã thắng một lần nữa. lớn ở Chương Dương. Kẻ thù bị đánh bại hoàn toàn.

Sau chiến thắng, Trần Quang Khải là người hộ mệnh cho hai vua Trần về kinh. Trong không khí của ngày chiến thắng, Trần Quang Khải đã cảm hứng viết bài thơ này.

Tinh thần Đông A thể hiện ở chiến công anh dũng của vua quan nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Chiến thắng Hàm Tử và chiến thắng Chương Dương là hai chiến thắng vang dội, khẳng định sức mạnh của tinh thần đoàn kết, ý chí quyết thắng kẻ thù xâm lược.

Lấy sóc Chương Dương.
Cầm Hồ Hàm Tử Quan.
(Trương Dương cướp giáo địch.)
Hàm Tử bắt giặc)

Tinh thần Đông A còn thể hiện ở khát vọng xây dựng và phát triển đất nước trong hòa bình và niềm tin sắt son vào sự trường tồn bền vững của đất nước.

Thái Bình hoài nghi nỗ lực
Người xưa thử giang san
( Thái Bình nên cố gắng
Đất nước ấy ngàn thu)

Nói ngắn gọn:

Có lẽ không một quốc gia, một dân tộc nào trên thế giới muốn bị xâm lược, và không ai trong nhân loại thích sống trong loạn lạc và chiến tranh. Vì vậy, khi kẻ thù xâm phạm lãnh thổ, không thể làm gì khác hơn là đứng lên và chiến đấu. Và những chiến công anh dũng trước quân xâm lược luôn là niềm tự hào, động lực và ý chí đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Bài thơ “Tụng kinh” của Trần Quang Khải như một khúc ca khải hoàn về khí thế chiến thắng và khát vọng hòa bình.

Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến trường diễn ra cuộc chiến ác liệt của quân đội nhà Trần với quân xâm lược Nguyên Mông. Hai chiến thắng đó là chiến công hiển hách, lừng lẫy, vang dội của quân dân các phương, làm thay đổi cục diện giữa ta và địch. Quân ta chuyển từ thế bị động sang thế tiến công giành thắng lợi. Hai câu thơ chỉ dài mười tiếng nhưng âm hưởng vang dội sông núi, như hiện ra trước mắt người đọc một trận chiến ác liệt, với tiếng hô, tiếng chiêng, tiếng trống vang dội núi rừng. “Cướp giáo giặc”, “bắt giặc” – tư thế kiêu hãnh, oai phong lẫm liệt trong chiến đấu, dũng cảm và uy quyền, oai phong lẫm liệt. Tinh thần chiến đấu cũng như tinh thần Đông A của quân dân thời Trần – đoàn kết, quyết vì đại nghĩa với tinh thần quyết thắng không gì lay chuyển được. Lời thơ tràn ngập niềm hân hoan, phấn khởi, hân hoan trước một chiến thắng vẻ vang.

Dù trải qua bao gian khổ, chiến đấu anh dũng nhưng khi chiến thắng, ông vẫn không quên nhiệm vụ củng cố đất nước, tiếp tục rèn luyện để bảo vệ Tổ quốc, được Trần Quang Khải đúc kết qua hai câu thơ cuối:

“An tâm tu luyện

“Thử ngàn xưa thử giang san”

Sau bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu máu và nước mắt, hàng ngàn sinh mạng phải đánh đổi, tôi càng trân trọng giây phút bình yên và tự do. Tác giả nhắc nhở quân dân về ý thức bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau góp sức xây dựng đất nước phát triển trong hòa bình, thịnh vượng để đất nước trường tồn ngàn năm và bền vững. . Mong ước của tác giả như thay cho ước nguyện của nhân dân. Nỗi trăn trở của hàng ngàn người về công cuộc xây dựng và dựng nước tốt đẹp từ hàng ngàn năm nay.

Tinh thần quyết thắng và khát vọng hòa bình là tư tưởng chủ đạo cộng hưởng xuyên suốt tác phẩm. Bài thơ tuy ngắn nhưng hàm súc, chứa đựng những ước vọng, tâm tư của một tư tưởng lớn, một nhân cách lớn.

5. Biểu hiện của tinh thần Đông A trong bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão:

Hoàn cảnh sáng tác: Quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành vào năm 1282, nhưng thực chất âm mưu là xâm lược nước ta. Nhận rõ ý đồ của địch, vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế sách đánh giặc. Bàn bạc xong, Phạm Ngũ Lão cùng một số tướng lĩnh được cử ra biên giới phía Bắc trấn thủ đất nước. Như vậy, hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ là chất xúc tác mạnh mẽ để Phạm Ngũ Lão làm thơ.

– Lòng tự hào dân tộc thể hiện qua tư thế và hành động của con người Đại Việt:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quan, hổ khí thôn Ngưu.
(Múa ngọc trai sông núi truyền từ bao đời nay).
Ba quân hùng mạnh phải là Kim Ngưu)

– Mong muốn lập công giúp nước, ý thức trách nhiệm với dân tộc:

Nam trí liễu công danh trái.
Tu luyện thế giới để nghe thuyết Vũ Hầu.
(Tên đàn ông còn nợ nần
Xấu hổ khi nghe câu chuyện của Wuhou)

Nói ngắn gọn:

Toàn bộ bài thơ Thuật Hồi của Phạm Ngũ Lão bao trùm bởi niềm tự hào dân tộc, bởi tinh thần của nhân dân và của nhà Trần. Được diễn đạt cô đọng, súc tích, bài thơ toát lên hào khí oai hùng của dân tộc Việt Nam, toát lên từ một tâm hồn cao thượng, một tấm lòng yêu nước sâu sắc. Đọc bài thơ, người đọc càng cảm thấy tự hào về một triều đại anh hùng trong lịch sử dân tộc, càng hiểu vì sao trong thời đại ấy, ta ba lần đánh tan quân giặc. Mông – Nguyên rong ruổi khắp thiên hạ. Tinh thần mà thời đại đó thể hiện, tuy đã qua nhưng tinh thần mà nó thể hiện vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay. Thế hệ chúng ta kế thừa chí khí hào hùng ấy với những dấu son chói lọi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Và chúng ta cũng không thể quên hình ảnh của người anh hùng vĩ đại – Phạm Ngũ Lão, con người văn võ song toàn, biểu tượng của người trai trẻ, của người chiến sĩ thời đại với tinh thần Đông A quyết thắng.