Bút pháp tả cảnh ngụ tình là một đặc sắc phổ biến trong nhiều tác phẩm văn học trung đại. Để hiểu rõ hơn về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, những nét đặc sắc về mặt thẩm mĩ và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được thể hiện trong truyện Kiều… chúng ta cùng tham khảo bài viết dưới đây:
1. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là gì?
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là thơ ca được biết đến từ văn học trung đại. Văn học trung đại mang đặc trưng của tính cổ kính, vô ngã và ước lệ. Văn học trung đại có xu hướng sử dụng các hình ảnh tượng trưng để mô tả, nhưng phần lớn nó mang tính gợi hình hơn là mô tả. Do đó, các phong cách viết chủ yếu được sử dụng trong văn học trung đại là bút pháp chấm phá, bút pháp đòn bẩy, bút pháp lấy động tả tĩnh, bút pháp lấy điểm tả diện,…nhưng nổi bật nhất trong số đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là lối văn miêu tả cảnh vật thiên nhiên hoặc cuộc sống xung quanh, qua đó miêu tả tâm trạng, suy nghĩ, tình cảm của chủ thể trữ tình. Đây là bút pháp khiến cho cảnh vật thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Một cảnh vật chỉ là một cảnh vật vô hồn nếu nó không được nhìn thấu qua trái tim của nhân vật trữ tình hay của chính tác giả.
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thời trung đại. Do có niêm luật, thể thơ và số lượng từ nhất định, nó thể hiện một cách sâu sắc tình cảm và khái quát được mọi lẽ sống, tâm tư tình cảm của con người, có khả năng khơi gợi tình cảm, cảm xúc. Bút pháp này sử dụng nhiều cách dùng từ, văn pháp thẩm mỹ và nghệ thuật.
2. Dàn ý nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
2.1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác phẩm và đoạn trích:
‐ Tác phẩm “Truyện Kiều” là kiệt tác của văn hào Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam một công trình sáng tạo tuyệt vời, gây tiếng vang cho nhiều thế hệ sau.
‐ Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được biết đến là một đoạn trích hay và tiêu biểu khi nó lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều.
2.2. Thân bài:
‐ Giới thiệu sơ lược về hoàn cảnh của Thúy Kiều, lí do vì sao mà nàng lại ở lầu Ngưng Bích này.
‐ Bởi gia đình gặp khó khăn rồi bị lâm biến, sau đó Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bán cô vào thanh lâu. Hổ thẹn, tủi nhục, Thúy Kiều đã quyết định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng cuối cùng lại không thành công.
‐ Bị lừa bán vào lầu Ngưng Bích nên những ngày đầu ở lầu đây, Thúy Kiều đã tuyệt vọng đến mức cảm thấy sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
‐ Phân tích hai từ “khóa xuân” hai từ này đã gây bao cảm xúc chua xót trong lòng người đọc.
Thúy Kiều sắc nước hương trời.
Không gian càng mênh mông tăm tối, mịt mù càng làm cho khiến tâm trạng Thúy Kiều u ám hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm vac mắc kẹt cả về tinh thần và thể xác.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
‐ Hai từ “bẽ bàng” đã diễn tả hết nỗi tủi nhục, đau đớn của Thúy Kiều khi bị Mã Giám Sinh phản bội rồi bán vào lầu xanh.
‐ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật thực sự đã hòa làm một. Cảnh và người mang đến sự u uất, trống vắng, hiu quạnh…
‐ Ở những khổ thơ sau, tác giả đưa nhịp thơ mạnh mẽ hơn, hướng không khí Thúy Kiều nhớ lại thuở xưa yên bình, hạnh phúc.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
‐ Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi nhớ đến Kim Trọng, mối tình đầu của mình, trong lúc tủi nhục, người đầu tiên nàng nhớ đến là Kim Trọng, nhớ đến người đã hẹn ước với mình.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
‐ Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Nàng nghĩ đến những người đã sinh ra mình và cảm thấy có lỗi, xót xa.
– Tâm trạng Thúy Kiều trở về với thực tại cuộc đời, trở về với thực tại đau đớn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
‐ Điệp từ “buồn trông” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ. Giống như tâm trạng lúc này của Kiều vậy, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
‐ Đoạn thơ nói về sự lênh đênh trong sóng gió cuộc đời của Kiều. Nó nói về những sóng gió, chông gai mà Kiều phải trải qua:
“Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
2.3. Kết bài:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ bằng những gam màu xám lạnh, thể hiện một không gian cùng tâm trạng nhân vật trữ tình rất sống động nhưng cũng đượm buồn, tiếc nuối, thê lương, ai oán.
Phân tích phong cách nghệ thuật “Tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một.
3. Bài mẫu phân tích tả cảnh ngụ tình trong cảnh ngày xuân của Truyện Kiều:
Phân tích cảnh ngày xuân trong đoạn trích, ta nhận thấy chỉ trong hơn 20 dòng đã dự đoán trước về một cuộc đời khốn khó sắp đến với Kiều. Thiên nhiên ngày xuân mở ra là một bức tranh thuần khiết, trong đó:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cảnh ngày xuân được thể hiện bằng một loạt hình ảnh tiêu biểu là cánh én, nắng xuân, cỏ non, cành lê. Nhưng ngày xuân mà Nguyễn Du chọn không phải là lúc trời vừa chớm nở hay khi sắc xuân đã tràn đầy, mà ông chọn thời điểm vào lúc cuối xuân.
Có thể nói, vào cuối mùa xuân, thiên nhiên dường như đang cố giải phóng chút sinh lực rạo rực còn sót lại để sẵn sàng cho sự chuyển mùa sắp tới. Lúc cảnh thiên nhiên mùa xuân ấy được khắc họa, ta cũng cảm thấy xúc động. Dường như thể một sự nuối tiếc “đã ngoài sáu mươi” nghĩa là thời gian tươi đẹp sắp kết thúc.
Hình ảnh thiên nhiên được thể hiện với màu chủ đạo là màu xanh. “Cỏ xanh tận chân trời” là cảm giác cánh đồng cỏ được trải dài đến cuối trời theo màu xanh biếc của nền trời. Một khung cảnh trong lành, bình dị hiện ra. Khung nền được trang trí bằng màu hoa lê trắng.
Chúng ta thường nghĩ hoa mai vàng ấm, hoa đào hồng rực là biểu tượng của một ngày xuân. Nhưng Nguyễn Du đã quyết định lấp đầy bức tranh mùa xuân của mình bằng hình ảnh hoa lê trắng. Màu trắng ấy vừa gợi sự thanh khiết, đồng thời cũng là sự kiện tươi mới của người thiếu nữ, chỉ “cái xuân xanh đến trong thiên niên kỷ”. Nhưng bông hoa lê thuần khiết ấy cũng rất mong manh dễ gãy. Hoa lê cũng giống như thân phận của một người phụ nữ “có tài khiến trời đất ghen tị”, càng tài sắc lại càng truân chuyên chuyên. Phải chăng vì thế mà mà Nguyễn Du chọn hoa lê cho bức tranh xuân này.
Không chỉ hình ảnh thiên nhiên được khắc họa mà ngòi búi của Nguyễn Du còn miêu tả cảnh sinh hoạt nhộn nhịp của con người:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Khung cảnh ngày hội nhộn nhịp đông vui. Nhưng trong cảnh vẫn phảng phất một nỗi buồn man mác. Khung cảnh nhộn nhịp nhưng lại không thấy sự xuất hiện của chị em Kiều. Giữa cảnh ấy, Kiều như thu mình lại, lạc lõng trong cuộc vui của mọi người. Cuối bức tranh có một khung cảnh thiên nhiên, nhưng khung cảnh này không còn tràn đầy sức sống…
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Nao nao làn nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Cảnh mùa xuân được nhìn thấy như một khoảnh khắc buồn. Đó là thời khắc ngày tàn. Mặt trời ngả bóng, cả không gian như chùng xuống. Đây là lúc con người ta sống thật với chính mình. Trong bức tranh này, chị em Thúy Kiều Thúy Vân hiện ra trực diện trong bức tranh xuân. Nhưng hai chị em không xuất hiện với hoạt động vui vẻ và sôi nổi của đám đông viếng mộ, mà xuất hiện trong cảnh ra đi, như thể xung quanh không còn vui vẻ và sống động như ban ngày.
Từ “nao nao” dùng rất hay. Đó vừa là nhịp chảy không ngừng của dòng nước nhỏ, vừa là tâm trạng xốn xang tô điểm cho nỗi buồn đầy ắp, nỗi buồn vô định thấm đẫm cả cõi đời và lòng người. Cảnh vật vẫn thế, đường nét vẫn thanh thoát, nhưng tâm trạng con người đã khác.
Thời thế đổi thay, cảnh vật đổi thay cũng là một quan niệm dụng tâm của Nguyễn Du. Vì đây dường như là một điềm báo về số phận của Kiều. Bức tranh đầu tiên ở đây là cuộc đời “xuôi chèo mát mái” của Thúy Kiều. Đó là những tháng ngày vô tư dưới sự bảo bọc của cha mẹ. Bức tranh xuân thứ hai này là một nét chấm phá trong cuộc đời Kiều. Sóng gió truân chuyên, lận đận sẽ bắt đầu mở ra với cuộc đời nhỏ bé của nàng. Cuộc đời Kiều sẽ rẽ ngang ở một diễn biến khác.
Tuy nhiên, sau cảnh này, Kiều gặp những nhân vật sẽ ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Đây là Kim Trọng – mối tình đầu một lòng một dạ, đây là Đạm Tiên – người tri âm đồng thanh đồng khí. Chỉ mấy dòng thôi mà cả một khung cảnh, một nỗi niềm man mác dự báo về tương lai cuộc đời của người con gái tài sắc vẹn toàn được ẩn chứa.
4. Bài phân tích tả cảnh ngụ tình khi Kiều ở lầu Ngưng Bích của Truyện Kiều:
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến một lần nữa được thể hiện qua cuộc đời bèo dạt mây trôi của nàng Kiều. Trong những ngày bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích, Kiều suốt ngày tràn ngập trong nỗi cô đơn. Bởi bị giam cầm trong lầu Ngưng Bích mà tầm nhìn của nàng chỉ hướng ra cảnh vật bên ngoài mà thôi.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Phân tích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy nàng Kiều một mình nơi xứ người, đối diện với những giông tố của cuộc đời. . . Khi gia đình gặp biến cố, Kiều phải bán mình chuộc cha, đau đớn cắt đứt mối tình đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng. Những tưởng sóng gió ấy đã đủ lớn, nhưng đau đớn, phũ phàng hơn là khi Kiều phát hiện Mã Giám Sinh không lấy mình làm vợ lẽ mà bán mình vào lầu xanh làm kỹ nữ. Nhục nhã ê chề ơ nơi đất khách quê người không có ai cùng tâm sự bầu bạn, Kiều chỉ biết gửi nỗi lòng vào thiên nhiên mà thôi.
Nàng luôn hướng tầm nhìn ra xa khung cảnh thiên nhiên như một liều thuốc để được tự do về mặt tinh thần. Nhưng không gian rộng lớn và hiu quạnh trước mắt liệu có phải là một tương lai vô định đang chờ đón nàng. Bẽ bàng” là sự việc đau đớn, xót xa. “Mây sớm đèn khuya” là hình ảnh thường thấy diễn tả sự thay đổi có tính chu kỳ của thời gian.
Thời gian còn có nghĩa lý gì nữa khi tâm trạng Kiều đầy những sự trống rỗng như thế này. Vòng quay tuần hoàn của thời gian tạo vật càng khiến cho nỗi cô đơn thêm chồng chất nhấn chìm cuộc đời nhỏ bé của nàng. Xung quanh chỉ có sự cô độc bao vây nàng. Dường như thiên nhiên cũng hiểu được tình cảm của Kiều. Vì vậy, Nguyễn Du cũng khẳng định định rằng:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Thiên nhiên đã chia sẻ cảm xúc này với nàng Kiều. Nỗi buồn của thiên nhiên đã thấm vào lòng người hay ngược lại, nỗi buồn của lòng người mới thấm vào thiên nhiên.
“Buồn cảnh cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trôi nội cỏ rầu rầu
Chân trời mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Điệp từ “buồn trông” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi niềm và cái nhìn xa xăm của Kiều. Mỗi lần lặp lại tương ứng với các hình ảnh tự nhiên. Khung cảnh nên thơ với cửa bể, cánh buồm, ngọn nước, hoa trôi, cỏ cây và tiếng sóng vỗ. Tuy nhiên, điểm chung của những điều đó là đều nhỏ bé, trôi nổi trong dòng đời và không thể tự định đoạt được. Và đây cũng là điềm báo trước cho cuộc đời Kiều.
“Hoa trôi man mác biết là về đâu?” Cánh hoa dù xinh đẹp cũng chỉ có thể bất lực trước dòng sông này, bởi vì dù có cố gắng chống cự thì kết quả cũng vô vọng, chỉ có thể trôi theo dòng nước mà thôi. Dòng sông này hay đây là cuộc đời, là cánh hoa hay là số phận của một người tài hoa. Tiếng sóng gầm rú cũng đáng sợ như tiếng hét. Phong ba rồi sẽ nổi lên nhấn chìm cuộc đời nàng. Thiên nhiên ấy là tượng trưng cho lý thuyết tài mệnh tương đố đeo bám cả cuộc đời những con người tài hoa bạc phận.
5. Nhận định tác dụng của biện pháp thẩm mỹ và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
Thẩm mỹ tả cảnh ngụ tình là một văn pháp quen thuộc. Nhưng mỗi nhà thơ phải có cách dùng riêng, độc đáo thì mới thực hiện được mục đích sáng tác của nhà thơ. Khung cảnh không chỉ là một phần làm nền của cốt truyện để nhấn mạnh nhân vật mà nó còn là một nhân vật trữ tình mà qua đó tác giả muốn gửi gắm các thông điệp. Cảnh vật thiên nhiên luôn ẩn chứa một cách tinh tế những cảm xúc của thi nhân.
Muốn hiểu sâu tác phẩm, người đọc phải ngẫm nghĩ sau mỗi cảnh mới hiểu được dụng ý của nhà thơ. Mỗi cảnh tượng không chỉ thể hiện thế giới của tác phẩm mà còn là một góc nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Và đây cũng chính là nét đẹp thẩm mỹ, nghệ thuật của văn học trung đại, trở thành điển hình tạo nên những kiệt tác sống mãi với thời gian.
Mọi thủ pháp thẩm mỹ, nghệ thuật nói chung và thẩm mỹ văn học, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình nói riêng đều thể hiện tài năng và tấm lòng của nhà thơ. Nó cho thấy một mối quan hệ được xây dựng khéo léo với bàn tay của người nghệ sĩ trong từng chi tiết. Vì vậy, khi đọc tác phẩm, chúng ta không nên bỏ qua những yếu tố nhỏ nhặt như cảnh vật thiên nhiên, cảnh vật sinh hoạt, bởi đây cũng là quan niệm của nhà thơ, đang chờ đợi sự cắt nghĩa của tất cả chúng ta.