Phan
Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là
một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Bài viết dưới đây là câu trả lời
cho câu hỏi Phan Châu Trinh là ai? Cuộc đời và
sự nghiệp của ông? Cùng tham khảo nhé.
1. Tìm hiểu về cuộc đời Phan Châu Trinh:
Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh ra là một vị quan nhỏ có võ, từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh. Cha ông qua đời ở tuổi 13.
Năm 1892, ông đi học và học giỏi. Bạn học của ông là Huỳnh Thúc Kháng (kém ông 4 tuổi).
Năm 1900, ông tốt nghiệp Cử nhân.
Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với Tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc.
Năm 1902, ông vào trường Nho học, sau làm Thượng thư Bộ Lễ. Không lâu sau, ông từ chức, ra hoạt động cứu nước. Ông kết bạn với nhiều chí sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu. Ông và Phan Bội Châu rất khâm phục lòng nhiệt thành cứu nước, nhưng ông không tán thành cách dựa vào Nhật để chống Pháp của Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ động đấu tranh, liên kết các trí thức, văn thân yêu nước.
Trong thời gian từ 1902 đến 1905, Phan Chu Trinh có dịp nghiên cứu các tác phẩm tư tưởng cách mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire… Càng tiếp xúc với các quan lại, Phan Chu Trinh càng thấy rõ. mức độ. mục ruỗng, điêu tàn trên con đường sự nghiệp.
Năm 1905, Người xuất ngoại sang Nhật rồi sang Pháp, chủ trương dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, thực hiện tự do dân chủ, đánh đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc. sắc tộc.
Năm 1906, ông bí mật sang Nhật gặp Phan Bội Châu, khởi nghĩa Duy Tân, canh tân đất nước. Sau khi về nước, ông tuyên bố chính sách cải cách và trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào cải cách đầu thế kỷ 20. Ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một lá thư dài đề ngày 15. Tháng 8 năm 1906. Trong thư, Phan Châu Trinh phê phán chính quyền Pháp không lo bành trướng, bóc lột nhân dân mà chỉ lo sưu thuế, làm cho dân đã khổ lại càng khổ hơn. Ông gợi ý rằng chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với nhân dân miền Nam và cải cách mọi chính sách cai trị.
Tháng 7 năm 1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội dạy học ở Đông Kinh Nghĩa Thục, các buổi thuyết giảng của ông rất đông. Anh mở rộng quan hệ với một số người Pháp.
Năm 1908, văn chức Hà Thành bị đầu độc ở Hà Nội, phong trào chống sưu thuế của nông dân Trung Kỳ nổ ra bị thực dân Pháp đàn áp, tháng 4/1908 ông bị bắt tại Hà Nội, tháng 6/1908 bị đày đi đày ra Côn Đảo.
Năm 1910, nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả tự do, nhưng bị quản lý tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, ông đã viết thư cho Toàn quyền xin đi Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất quyết không bị giam ở Mỹ Tho. Nhân sắc lệnh ngày 31-10-1908 của chính phủ Pháp về việc thành lập phái đoàn dạy chữ Hán tại Pháp, năm 1911, chính phủ Đông Dương đã cử một phái đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Đạt.
Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường, mở hiệu sửa ảnh, sống trong sạch (Nguyễn Tất Thành cũng làm trong tiệm của ông). Ông tìm cách liên lạc với những người trong Liên minh Nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Ông cũng có những cuộc gặp xúc động với các nhóm kiều bào và các đảng phái tiến bộ, bàn về các vấn đề độc lập, tự do, dân chủ.
Năm 1913, Phan Châu Trinh tập hợp, biên tập và hoàn thành một số chuyên khảo, chính luận viết bằng chữ Hán như: Trung Kỳ sưu thuế hà trọng…, Đông Dương chính trị luận, Liên hiệp Pháp – Việt hậu chi Tân Việt, Đại Việt sử ký Sử ký Toàn thư: Tùy bút… Biểu diễn ca khúc Giai nhân kì ngộ.
Năm 1914, ông lại bị giam ở nhà tù San Tế vì nghi ngờ có quan hệ với Đức. Nhờ sự can thiệp của Đảng Xã hội Pháp, ông được trả tự do. Khoảng thời gian này, anh ấy đã soạn các tệp thi Santé và sao chép các mẫu văn bản mà anh ấy đã làm trước đây.
Năm 1917, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành thành lập Hội Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Ngày 19-6-1919, Người cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành soạn “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi đến Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, bùng nổ. chính trị” ở Pháp.
Năm 1920, Phan Châu Trinh gặp Bộ trưởng Thuộc địa Albert Saro để yêu cầu cải cách chính trị ở Đông Dương.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự trận khô ở Marseille, ông đã viết một bức thư dài “Thất điều thư” buộc tội Khải Định 7 điều và khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều).
Năm 1925, ông trở lại Sài Gòn tiếp tục hoạt động theo khuynh hướng cải lương, đòi dân quyền, dân sinh, khí dân. Ông đã hai lần diễn thuyết tại Sài Gòn: Luân lý và Đạo đức Đông Tây và Chủ nghĩa quân phiệt và Dân chủ.
Năm 1926, Phan Châu Trinh bị hành hạ. Ông mất ngày 24 tháng 3 năm 1926 tại Sài Gòn. Ngày 4-4-1926, tang lễ của ông được tổ chức trọng thể theo tinh thần quốc tang. Tang lễ được tổ chức ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Lễ truy điệu và đưa tang ông là một cuộc biểu dương tinh thần dân tộc – dân chủ của phong trào yêu nước lúc nửa đêm, bất chấp sự phản đối của bọn thực dân.
Sau khi ông mất, tinh thần yêu nước của ông vẫn cổ vũ phong trào đấu tranh trong cả nước, đặc biệt là trong giới thanh niên, học sinh nổi lên phong trào đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh.
2. Sự nghiệp của Phan Châu Trinh:
2.1. Các tác phẩm của Phan Châu Trinh:
– Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự, 1907 (bài tựa chữ Nôm kêu gọi toàn dân tổ chức đoàn thể, mở mang thực nghiệp để mưu cầu hạnh phúc)
– Tuồng Trưng nữ vương bình ngũ lãnh, 1910 biểu dương tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng và bày tỏ ý hướng duy tân.
– Đầu Pháp chính phủ thư (gửi toàn quyền Beau sau khi ông đi Nhật về)
– Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925, là hai bài diễn văn của ông đọc tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn, sau khi ông từ Pháp trở về
– Đông Dương chính trị luận, 1926, là một bản án thực dân về những tệ chính và tệ trạng với hệ thống chặt chẽ, rõ ràng…
– Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, bản thảo chữ Hán trình bày đường lối chính trị của ông về mộ nước Việt Nam mới saukhi thi hành chính sách “Liên hiệp Pháp Việt”
– Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1913-1915) nội dung nói về sự gặp gỡ lạ lùng của một đôi trai tài gái sắc trên đất Mỹ
– Ký Khải Định hoàng đế thư, 1922 – thư chữ Hán gửi Khải Định khi ông sang Pháp làm điều ám muội mà Phan Châu Trinh cho là một điều sỉ nhục với quốc thể.
– Bức thư trả lời cho một người học trò tên Đông, 1925, ý kiến với một du học sinh Việt Nam tại Pháp về một loạt liên hệ tới tình hình đất nước và đường lối thực hiện để cứu nước
– Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký, 1911 gửi cho Hội Nhân quyền và Dân quyền ở Paris
– Phong trào Duy tân và một số thơ văn
– Thi phẩm Tỉnh quốc hồn ca (2 tập) hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền – (tập I: 468 câu, tập II: 500 câu)
– Tập thơ Tây hồ và Santé thi tập (1914-1915) gồm khoảng 50 bài thơ chữ Hán và hơn 200 bài thơ chữ quốc ngữ
2.2. Quan điểm sáng tác của Phan Châu Trinh:
Phan Châu Trunh luôn ý thức lây văn chương làm cách mạng. Trích văn chương của Phan Châu trinh: Vì vậy, chúng ta hãy tuyên bố với đồng bào cả nước: “Không bạo động, bạo động tất chết! Không trông người nước ngoài, trông người nước ngoài tất ngu! Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi xin có một vật rất quý báu tặng cho đồng bào, là “Chi Bằng Học”. (Hiện Trạng Vấn Đề, báo Đăng cổ Tùng báo 1907, Phan Châu Trinh)
Nếu coi dân chủ là một nguồn lực, một đặc điểm mà ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, cốt lõi của nó là việc xây dựng một nền dân chủ phù hợp với lộ trình phát triển chung của cả nhân loại, thì chúng ta mới thấy giá trị của nhiều vai trò của Phan Châu Trịnh là một trong những người đặt nền móng cho tư tưởng dân chủ vào Việt Nam.
Theo ông, nhiệm vụ cấp bách của nhân dân Việt Nam là:
Khai dân trí: bỏ học tầm xa, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực tiễn, bài trừ hủ tục xa hoa.
Chấn dân khí: đánh thức tinh thần tự lực, tự cường, người dân nhận thức được quyền lợi của mình, được giải phóng khỏi bạo quyền.
Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn bán, sản xuất hàng hóa trong nước…
3. Sách và các tác phẩm viết về cụ Phan Châu Trinh:
Có một số tác phẩm sau đây viết về Phan Châu Trinh:
– Phan Châu Trinh toàn tập, 3 tập, NXB Đà Nẵng
– Phan Châu Trinh – cuộc đời và sự nghiệp, tạp chí Khoa học xã hội.
– Phan Châu Trinh: cuộc đời & tác phẩm (Nguyễn Q. Thắng, NXB Văn học)
– Phan Châu Trinh: tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục