Các nước đang phát triển là gì? Đặc điểm chung của các nước?

Các nước đang phát triển là gì? Đặc điểm chung của các nước?
Bạn đang xem: Các nước đang phát triển là gì? Đặc điểm chung của các nước? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Chắc hẳn các bạn đã từng nghe thấy những thông tin hay tài liệu nhắc về các nước đang phát triển khi nói về một số quốc gia như Thái Lan, Lào, Campuchia hay gần gũi nhất đó là đất nước Việt Nam chúng ta. Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây để rõ hơn các nước đang phát triển.

1. Các nước đang phát triển là gì?

Trong thế giới hiện đại, các quốc gia được phân loại rộng rãi thành các quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển dựa trên tiếu chí về kinh tế – xã hội và các yếu tố phát triển con người cùng với nhiều yếu tố khác. Sự phân loại này không tuân theo bất kỳ định nghĩa cụ thể nào và có thể gây ra nhiều sự hiểu lầm, đặc biệt là đối với trường hợp các quốc gia phát triển và đang phát triển, sự phân loại này đang dần biến mất.

Các nước đang phát triển là các nước có tổng sản phẩm quốc nội trên dân số (GDP/người) thấp, nợ nước ngoài nhiều và chỉ số phát triển con người thấp (HDI).

2. Đặc điểm của các nước đang phát triển:

2.1. Thu nhập bình quân đầu người thấp:

Các nước đang phát triển thường có thu nhập bình quân đầu người thấp. Đặc biệt ta có thể thấy rõ nhất khi so sánh với thu thập bình quân đầu người đối của các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật. Ngoài ra, thu nhập bình quân đầu người là mức trung bình và do đó nó không thực sự cho thấy mức độ nghèo đói ở một quốc gia.

Theo số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế ước tính năm 2021, thu nhập bình quân đầu người của các nước phát triển như Ireland là 131,302 USD, Thụy Sĩ là 93,515 USD, Đan Mạch là 67,920 USD trong khi đó thu nhập bình quân đầu người của các nước đang phát triển như Ấn Độ là 2,036 USD, Pakistan là 1,555 USD, Nam Sudan là 303 USD.

Tuy nhiên, trên thực tế mức độ nghèo của dân cư phổ biến ở các nước đang phát triển không được phản ánh đầy đủ và chính xác trong số liệu về thu nhập bình quân đầu người mà đây chỉ là thu nhập trung bình, khi trong đó cũng bao gồm cả thu nhập của những người giàu tại các quốc gia này. Sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập phổ biến ở các nền kinh tế này đã làm cho cuộc sống của người dân thêm khốn khổ. Phần lớn dân số của các quốc gia này phải sống dưới mức nghèo khổ.

2.2. Dân số quá đông:

Dân số có số lượng cao quá mức sẽ gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế và đời sống xã hội của người dân do dân số đông sẽ kéo theo một lượng lớn sức lao động trong khi nguồn lực đáp ứng các nhu cầu về việc làm tại quốc gia đó thì hạn chế. Nó có nghĩa là sẽ có nhiều người phải nuôi sống hơn, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và gánh nặng tài chính cũng theo đó đè nặng lên tấm vai gầy của người dân.

2.3. Phụ thuộc quá nhiều vào nông nghiệp:

Một quốc gia đang phát triển nhìn chung chủ yếu hướng đến phát triển nông nghiệp mà chưa có những chính sách coi trọng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoảng 60 đến 75 phần trăm dân số phụ thuộc vào nông nghiệp và các hoạt động liên quan để kiếm sống, lo cho cuộc sống thường ngày. Hơn nữa, khoảng 30 đến 50 phần trăm thu nhập quốc dân của các quốc gia này thu được từ mảng phát triển nông nghiệp. Sự phụ thuộc quá mức vào nông nghiệp này là kết quả của năng suất thấp, nông nghiệp lạc hậu và thiếu tăng trưởng công nghiệp hiện đại.

Sự thống trị của nông nghiệp ở các nước đang phát triển có thể được biết đến từ sự phân bổ lực lượng lao động của họ theo ngành. Ở Ấn Độ vào thời điểm độc lập, khoảng 60% dân số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và với sáu thập kỷ phát triển, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp đã giảm xuống còn khoảng 50% trong năm 2011-2012. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là sự gia tăng dân số trong khu vực phi nông nghiệp đã tạo ra việc làm không phải trong khu vực công nghiệp và dịch vụ có tổ chức mà trong khu vực phi chính thức, nơi năng suất lao động thấp như trong nông nghiệp.

Ở các nước đang phát triển ngày nay, mặc dù có sự tăng trưởng công nghiệp hiện đại trong bốn thập kỷ qua nhưng nhìn chung không đạt được nhiều tiến bộ đối với việc chuyển đổi cơ cấu trong cơ cấu nghề nghiệp đối với nền kinh tế của các quốc gia này. Do việc sử dụng các kỹ thuật thâm dụng vốn cao nên rất ít cơ hội việc làm được tạo ra trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ có tổ chức.

2.4. Nguồn nhân lực trình độ thấp:

Con người là tài nguyên tốt nhất của một quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực là điều mà các nước đang phát triển không quan tâm. Điều này có thể dẫn đến mức vốn con người thấp hơn và điều này là nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động và vốn trong đó thấp. Vốn con người bao gồm giáo dục, sức khỏe, kỹ năng và những điều này rất quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của người dân nói riêng và của nền kinh tế quốc gia nói chung.

Việc không đầu tư phát triển nguồn lực trong nước khiến cho các quốc gia đang phát triển không thể đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Với các ngành kinh tế đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao như khoa học công nghệ, công nghiệp nhẹ thì nguồn nhân lực trình độ thấp không để đáp ứng yêu cầu.

2.5. Mức vốn con người thấp:

Vốn con người – giáo dục, sức khỏe và kỹ năng – có tầm quan trọng thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển thiếu vốn con người là một trong những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động và vốn trong nước thấp.

Thiếu giáo dục thể hiện ở tỷ lệ nhập học thấp trong các cơ sở giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và đại học; Việc không được đào tạo qua các chương trình naỳ là một tổn thất rất lớn về mặt tri thức nhân loại nói chung và của quốc gia nói riêng. Trình độ giáo dục và kỹ năng thấp hơn không có lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp mới và việc tiếp thu công nghệ mới trở lên khó khăn để đạt được trình độ sản xuất cao. Bên cạnh đó, việc thiếu giáo dục và kỹ năng làm cho người dân kém thích ứng với sự thay đổi và làm giảm khả năng tổ chức và quản lý các doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu chế biến. Tại các quốc gia như Ấn Độ, chỉ có thể tận dụng lợi thế của cổ tức nhân khẩu học nếu những người trẻ tuổi có thể được giáo dục, khỏe mạnh và được trang bị các kỹ năng phù hợp để họ có thể được tuyển dụng vào các hoạt động sản xuất.

Cũng như vậy, sức khỏe, nguồn nhân lực quan trọng khác, là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả hay năng suất làm việc của con người. Những người suy dinh dưỡng, ốm đau thường xuyên thì không thể làm việc hiệu quả và do đó không đóng góp nhiều vào việc tăng năng suất.

3. Nguyên nhân của sự kém phát triển:

3.1. Xã hội:

Tỷ lệ mang thai và sinh nở cao khiến cho xã hội phải đáp ứng nhiều yếu tố như về vấn đề việc làm, cải thiện cuộc sống, lương thực, thực phẩm,…

Cơ cấu và các định chế pháp luật chưa phù hợp đối với điều kiện và tiềm năng của quốc gia đó để khai thác một cách triệt để nguồn lực có sẵn.

Luật phát không được thực thi nghiêm minh, tha hóa, tham ô của giới công chức khiến cho những hành vi phạm pháp tăng cao, gây thiệt hại cho nền kinh tế.

3.2. Kinh tế và chính trị:

Xung đột, bất ổn chính trị hoặc xã hội kéo dài  khiến cho việc thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, đời sống văn hóa khó khăn

Chính phủ thiếu những biện pháp bảo vệ những ngành công nghiệp non trẻ,đất nước không kinh tế để đầu tư cơ sở hạ tầng

Sự bóc lột của các nước phát triển, nền kinh tế đóng cửa và thiếu quyết tâm mở rộng giao lưu với thế giới bên ngoài cùng với đo việc nhà nước quản lý ngặt nghèo, thuế má nặng nề, không khuyến khích đầu tư khiến cho kinh tế đất nước trở nên lạc hậu, kém phát triển.

4. Công nghệ là giải pháp cho các nước đang phát triển:

Diễn đàn CNTT Thế giới (WITFOR) kết luận rằng công nghệ sẽ giúp các nước đang phát triển thịnh vượng, nhưng nếu không có cơ sở hạ tầng, làm sao điều này có thể thành công?

Trong bài phát biểu quan trọng của mình tại WITFOR ở San Jose, Costa Rica, Tiến sĩ Robert Atkinson, người sáng lập và chủ tịch nhóm chuyên gia cố vấn quốc tế, Quỹ Đổi mới và Công nghệ Thông tin (ITIF), cho biết Mỹ Latinh và các quốc gia đang phát triển khác phải số hóa càng nhiều quy trình càng tốt. càng tốt.

Tiến sĩ Atkinson cho biết: “Các công ty ở các quốc gia đang phát triển phải áp dụng nhiều công nghệ thông tin và truyền thông hơn và các hoạt động kinh doanh kỹ thuật số là điều cần thiết để thúc đẩy năng suất và tăng trưởng.

Ba chiến lược của ông dành cho các công ty ở các nước đang phát triển để phát triển tăng trưởng bao gồm: đặt doanh nghiệp lên hàng đầu bằng cách sử dụng Đám mây, kích hoạt quy mô (vì các công ty lớn hơn có năng suất cao hơn các công ty nhỏ hơn) và chấp nhận sự đột phá.

Tiến sĩ Atkinson cũng bác bỏ tuyên bố rằng công nghệ và tự động hóa sẽ có tác động tiêu cực đến số lượng công việc có sẵn, nói rằng các công nghệ mới sẽ mang lại nhiều vị trí và cơ hội việc làm mới hơn.

Theo Tiến sĩ Chrisanthi Avgerou, ba lĩnh vực mà chính phủ nên xây dựng các chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế:

– Tập trung mạnh vào giáo dục, đặc biệt là trong lĩnh vực thực hiện phán đoán quan trọng.

– Quy định (và bãi bỏ quy định) để bảo vệ chống lại các rủi ro liên quan đến quyền riêng tư và an ninh mạng.

– Tạo ra nhiều cuộc đàm phán quốc tế để giảm bớt các vấn đề về tăng trưởng thất nghiệp.

5. Liên hệ với Việt Nam:

Việt Nam hiện là quốc gia đang phát triển.

Việt Nam đã thu hút sự chú ý như một điểm đến phổ biến cho các công ty đang tìm cách chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc trong bối cảnh xung đột thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Năm 2020, việc Việt Nam phát hiện sớm và ngăn chặn thành công đại dịch COVID-19, giúp nền kinh tế phục hồi nhanh chóng, củng cố hình ảnh Việt Nam là “người chiến thắng duy nhất” trong số các nước ASEAN.

Việt Nam cần có quyết tâm và thực hiện ngay một số thay đổi chiến lược. Cụ thể như:

Thứ nhất, cần có chính sách đầu tư quốc gia, phát triển công nghệ, khoa học để làm một cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế số giống như đã từng chuyển đổi nền kinh tế tập trung năm 1986 sang nền kinh tế thị trường hiện tại.

Cuộc cách mạng chuyển đổi số sẽ giống như cuộc cách mạng internet và máy tính trong những thập niên 80 và 90 thế kỷ trước, ai cũng bị ảnh hưởng, không ai được phép ngồi ngoài tầm ảnh hưởng của công nghệ máy tính và thế giới kết nối internet.

Thứ hai, đột phá trong việc tìm, đào tạo, sử dụng và duy trì nguồn nhân lực có chuyên môn cao, phù hợp với việc phát triển nền kinh tế số. Trong “thế giới phẳng” của ngày hôm nay, công nghệ và những gì chúng ta học được của ngày hôm qua sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh, là bệ phóng.

Nhân tài được đào tạo mới sẽ tiến nhanh và xa hơn những người của thế hệ hôm qua. Sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế số sẽ quyết định sự thành bại của các tổ chức.

Năng suất lao động kinh tế số sẽ là chỉ số mới trong việc đánh giá sự phát triển và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của quốc gia.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc thay đổi và điều chỉnh cơ chế điều hành để tiến tới một nền kinh tế thị trường đích thực, hợp tác và hội nhập quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng rộng rãi và bền vững.