Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng và tràn đầy sức sống, trong bức tranh thiên nhiên ấy thể hiện những cung bậc cảm xúc, tâm trạng của thi nhân một cách rõ nét. Bài viết dưới đây là các mẫu: Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất.
1. Dàn ý Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ:
1.1. Mở bài:
– Một số nét khai quát về tác giả Hàn Mặc Tử.
– Giới thiệu nội dung chính của văn bản Đây thôn Vĩ Dạ.
– Giới thiệu, cảm nhận về sự nghiệp và phong cách viết của Hàn Mặc Tử.
– Cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ một cách khai quát.
1.2. Thân bài:
– Tâm trạng khao khát được trở về cuộc sống trần gian tươi đẹp:
+ Câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” vừa là lời mời (của cô gái với tác giả) vừa là lời
+ Hàn Mặc Tử khao khát được trở về làng Vị, vì cuộc sống quá tươi đẹp, tràn đầy sức sống và sức sống nên Hàn Mặc Tử yêu say đắm vẻ đẹp đó.
+ Càng khao khát nhớ nhung lại càng tiếc cuộc sống
– Tâm trạng cô đơn của nhân vật trữ tình:
+ Nhân vật đầy yêu thương phải chịu một chút buồn bã đầy bất hạnh: dù đang ở độ tuổi thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời nhưng cũng phải rời xa cuộc đời, xa rời tất cả những gì thân thương nhất.
+ Hình ảnh gió đi gió / mây đi mây gợi cho ta bi kịch cuộc đời tác giả.
+ Vì đau khổ nên Hàn Mặc Tử chỉ biết tìm đến ánh trăng để đồng hành, điều đó cho thấy nỗi cô đơn, tuyệt vọng của tác giả.
+ Nhưng ánh trăng có lẽ không đủ, Hàn Mặc Tử tỏ ra lo lắng, bồn chồn.
+ Hàn Mặc Tử rất muốn chia sẻ và đồng điệu.
– Tâm trạng hoài nghi
+ Hàn Mặc Tử nhận ra sự khác biệt giữa thế giới mình đang sống và thế giới của người khác
+ Anh nghi ngờ rằng trong thế giới như vậy “ ai biết tình ai có đậm đà”?
1.3. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
– cảm xúc của chính mình.
2. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất:
Theo ông Quách Tấn, bạn thân và cũng là người hiểu khá rõ nhà thơ Hàn Mặc Tử, bài thơ này, tức “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1939, ngay sau khi tác giả nhận được một tấm bưu ảnh, một “tấm phong cảnh” với lời thăm hỏi sức khỏe của bà Hoàng Cúc – bà cố, người yêu cũ của Hàn. Chính cuộc viếng thăm của cô gái đã làm tứ thơ bừng sáng trong đầu nhà thơ, khi nhà thơ rơi vào nghịch cảnh, thời khắc bi đát nhất của cuộc đời.
Bài thơ được Hàn Mặc Tử chia làm ba phần, mỗi phần là một cung bậc cảm xúc và được chi phối bởi một màu sắc phức điệu nhất định.
Tác giả đã phiêu lưu về khoảnh khắc bất lực, bồng bềnh trong giấc mơ, đau đớn đi theo bóng ảnh ảo trên thuyền trăng với mong muốn tìm lại “hình ảnh” của nhà thơ. Loài lạc lõng, cô độc, ham sống, đang đi tìm “thế giới mộng mơ”. Tuy nhiên, ngay cả cảnh cổ tích đẹp nhất cũng đã kết thúc, giấc mơ trên thế giới vốn được nói ra từ lâu đã thức tỉnh, trong khoảnh khắc hồi tưởng, tất cả những cá nhân hư ảo đã hóa thành mây khói: ánh nắng của khổ thơ trước đã tan biến , màu trăng đã tàn, hình ảnh hư hao, cả câu thơ phủ một màu trắng xóa đẩy đến sự tĩnh lặng cả câu thơ. Nhà thơ bị gửi trở lại một thế giới đầy nghịch cảnh. Lời quá đỗi ngọt ngào, như tiếc nuối trong nỗi đau chia ly.
Tìm kiếm vẻ đẹp của thế giới thực, thế giới thực làm hài lòng. Đi tìm sự đồng cảm và đồng điệu trong cái kì ảo, kì ảo, bóng tối. Cho nên, say rồi lạnh, với gió, mộng rồi tỉnh. Đó chính là logic lay động tâm trạng của một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống nơi đây tại làng Vĩ Dạ. Lời cảnh báo lúc gần, lúc xa, lúc rất thật, về sau càng ngày càng ảo tưởng, huyền bí. Giọng điệu, giọng điệu chứa đựng tình yêu lúc u ám, lúc lạnh lẽo. Cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Làng Đây Vĩ Dạ cũng chính là giọng nói đau khổ của Hàn Mặc Tử, vừa đẹp đẽ vừa đau đớn đến tận cùng.
Hàn Mặc Tử đắm mình trong cảnh sắc nhưng vẫn không ngừng quay lại. Làng Vĩ Dạ và người dân làng hiền lành, tốt bụng, xinh đẹp, họ đều độc lập, chỉ là “ai”. Sự trở lại trong nỗi nhớ càng đáng mong đợi hơn cho đến khi nhà thơ cuối cùng trở nên xa lạ với ký ức của mình.” Ai là khách phương xa?” Ai mơ thấy khách phương xa? Có phải là hình dáng của “ai thuyền” “vườn ai”? Hay tác giả là khách phương xa về trong giấc mơ nên: ”Áo em trắng quá nhìn không ra”, tất cả tạo thành mối trăn trở “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đó chính là câu hỏi tu từ đặt ở cuối bài thơ khiến nỗi niềm riêng của nhà thơ càng thấm thía, làm tăng thêm nỗi buồn cô đơn trong lòng. tấm lòng của người con yêu đời, yêu người. Hỏi mà không biết hỏi ai, hỏi ai. Hỏi mà không trả lời. Câu hỏi rơi vào hư vô, ngày tháng dịu đi hình ảnh không nguôi để lại dư âm trong lòng người đọc.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh sắc và con người của một vùng quê qua tâm hồn thơ mộng, óc tưởng tượng và giàu tình cảm của một nhà thơ đa cảm. Bằng nghệ thuật liên kết tư tưởng với các câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt chúng ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn chứa trong đó là tấm lòng của nhà thơ. chính nhà thơ: nỗi đau đớn cô đơn, nỗi buồn chán trần thế, nỗi đau cho số phận ngắn ngủi của mình, làng Vĩ Dạ này sẽ mãi là tiếng nói của một tâm hồn yêu thương con người và vạn vật nhưng đầy bất hạnh.
3. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn nhất:
“Đây thôn Vĩ Dạ” là bản rút gọn của “Thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về xứ Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đa tình, yêu kiều – lãng mạn, thơ mộng, lung linh trong ánh đèn huyền ảo. Bài thơ ngâm thơ đã thể hiện nỗi bâng khuâng, nỗi khao khát hạnh phúc của nhà thơ có nhiều cảnh duyên và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu “ngọt ngào” như một lời mời gọi, vừa hân hoan chào đón lễ hội, vừa như thoảng nhẹ niềm thương nhớ, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng và đằm thắm “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” . Cảnh người xưa thấp thoáng trong câu thơ đẹp với nỗi nhớ. Bao kỷ niệm ùa về trong tâm hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh quan vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ.
Giọng điệu, giọng thơ ngay từ đầu của tác phẩm này là một phần vô cùng quan trọng, bởi nó sẽ
Câu thơ chìm vào một lực phù sa cảm xúc mạnh mẽ, nỗi buồn man mác đã phát hiện trên từng con chữ của bài thơ, nỗi mặc cảm chia ly, phong cách ly biệt, ly biệt quyết định cái tôi của Mặc Tử, và phủ bóng lên giác quan không gian, nó dựng lên một khung cảnh quan hệ ở Đây thôn Vĩ Dạ, thiên nhiên trong thơ bị chi phối bởi tâm trạng con người, đó là một thực tại cô đơn, rộng lớn: gió thổi, bước đi, mây trôi, sông cũng lặng đi buồn lo xa xứ – thực tại, cảnh mờ sương hiện ra khác, vừa bên vừa cười: gió và mây, hai vật liên kết với nhau làm sao có thể rách rời. (gió thoảng mây bay, mây không thể tự nhiên dời, mây gió không thể ngược dòng), nếu nhìn qua lăng kính của đôi mắt một mình, Hàn Mặc Tử chắc chắn không thể làm được những vần thơ như vậy, cảnh thiên nhiên được Tú viết lại bằng những rung cảm xúc đầy “mặc cảm” , và “mặc cảm” ấy đã ngăn cách những tưởng tượng không thể tách rời”.
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen vừa xa lạ. Chất thơ của “Đây thôn Vĩ Dạ” nằm ở những liệu pháp ấy. Đoạn thơ miêu tả một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp quyến rũ của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, dịu dàng, thơ mộng và đượm buồn.
Hàn Mặc Tử để lại cho tôi một bài thơ tình hay. Cảnh báo và con người, giấc mơ và hiện thực, mê hoặc và buồn bã, ngạc nhiên và choáng váng, nhiều hình ảnh và cảm xúc vui vẻ hội tụ trong ba khổ thơ khải huyền, câu chữ toàn bích. Cảm nhận tâm trạng của nhân vật chứa đựng tình yêu Ở đây làng Vĩ Dạ bằng sức mạnh của sự thấu hiểu và đồng cảm ta thấy đây là một bài thơ tình tuyệt vời. Màu xanh ngọc của vườn Ai, con thuyền trên sông trăng, màu trắng của áo em dường như đang dẫn dắt tâm hồn anh về xứ sương khói làng Vĩ Dạ, một thời xa xôi.