Diễn biến và ý nghĩa Khởi nghĩa Thái Phiên

Diễn biến và ý nghĩa Khởi nghĩa Thái Phiên
Bạn đang xem: Diễn biến và ý nghĩa Khởi nghĩa Thái Phiên tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân là một sự kiện “long trởi lở đất”, bởi hai ông đã vận động được vua Duy Tân đứng ra làm lãnh tụ cuộc khởi nghĩa. Mời các bạn cùng tìm hiểu qua bài viết Diễn biến và ý nghĩa Khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân

1. Nguyên nhân và bối cảnh Cuộc Khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân:

Cuộc Khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân là một phản kháng dân tộc chống lại thực dân Pháp trong bối cảnh xâm lược và áp bức của người Pháp đối với Việt Nam. Dưới đây là những nguyên nhân và bối cảnh chính dẫn đến cuộc khởi nghĩa này: 

– Sự xâm lược và thôn tính của thực dân Pháp: Sau khi ký kết Hiệp định Huế năm 1883, thực dân Pháp đã thực hiện việc thôn tính và kiểm soát đất nước Việt Nam. Việc này đã gây ra sự phẫn nộ và phản kháng từ phía người dân Việt Nam, đặc biệt là các tầng lớp nông dân và lao động.

 Áp bức thuế và khai thác: Thực dân Pháp áp đặt các loại thuế nặng nề lên người dân Việt Nam để tài trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và quân sự của họ. Sự gia tăng về mặt thuế và khai thác tài nguyên gây khó khăn và căng thẳng cho người dân.

 – Sự suy yếu của triều đình Nguyễn: Sau Hiệp định Huế, quyền lực của triều đình Nguyễn bị suy yếu. Họ phải chấp nhận một tình trạng vua bóng trong hệ thống thực dân của Pháp, điều này gây thất vọng và thất hứa cho người dân.

– Tình hình khó khăn của người nông dân: Nông dân là tầng lớp bị ảnh hưởng nặng nề bởi việc áp bức thuế và khai thác. Họ phải đối mặt với việc mất cơ hội sản xuất và sự gia tăng về mức sống. 

– Sự yêu nước và ý thức dân tộc: Sự yêu nước và ý thức dân tộc đã thúc đẩy người dân Việt Nam tìm cách chống lại sự xâm lược và áp bức của thực dân Pháp. Cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân phản ánh tinh thần đoàn kết và ý chí chiến đấu của dân tộc Việt Nam. 

Trong bối cảnh này, cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân đã được gây dựng như một biểu hiện sự tức giận và sự kháng cự của người dân Việt Nam chống lại sự thôn tính và áp bức của thực dân Pháp. Mặc dù cuộc khởi nghĩa không thành công trong việc chấm dứt sự xâm lược của Pháp, nhưng nó đã đặt nền móng cho sự kháng chiến và tinh thần yêu nước tiếp tục tồn tại trong những cuộc phản kháng sau này.

2.  Diễn biến cuộc khởi nghĩa:

Với sự tham gia của lực lượng quân mộ ước hơn một ngàn người, trong đó có lực lượng rất hùng hậu, lúc bấy giờ đang tập trung tại Huế  sắp đến ngày qua Pháp, vua Duy Tân đã quyết định lựa chọn đêm mồng 1 tháng 4 năm Bính Thìn (3-5-1916) truyền lệnh khởi nghĩa.

Kế hoạch khởi nghĩa đã được truyền đi các nơi, chỉ còn chờ giờ hành động. Đêm ngày 2 tháng 4, khoảng 11 giờ, vua Duy Tân cải trang cùng với hai người tuỳ tùng là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu rời bỏ hoàng thành, đến bến Thương Bạc, nơi có thuyền chờ sẵn của hai ông Trần Cao Vân, Thái Phiên đến rước.

Uỷ ban khởi nghĩa gồm Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thanh Tài, Đỗ Trị, Nguyễn Suỵ, Lê Ngung. Theo kế hoạch, nếu không may khởi nghĩa thất bại thì đạo quân Quảng Nam rút xuống phía Tây chiếm lĩnh vùng rừng núi Bà Nà, đạo quân Quảng Ngãi rút lên thượng nguồn Vu Gia lập căn cứ địa kháng chiến dài lâu.

Khi công việc đang diễn tiến tốt đẹp thì Võ Cư – cai khố xanh ở đồn Quảng Ngãi, quân chủ lực tham gia vào cuộc khởi nghĩa – bị đưa đi nơi khác. Trước khi đi, Võ Cư đã thổ lộ bí mật cuộc khởi nghĩa với người em là Võ Trung – lính giản ở dinh quan sát, và dặn dò đến ngày khởi nghĩa sẽ xin nghỉ phép về nhà cho khoẻ. Ngày 2 tháng 5, Võ Trung đột ngột xin thôi việc,Phạm Liệu tuy đã nghe tin đồn về âm mưu của cách mạng song không tìm ra manh mối, nay biết thái độ Võ Trung nên sinh nghi vặn hỏi. Cuối cùng Trung khai thật, Liệu bèn giao cho quan tuần phủ và quan công sứ De Testes. Võ Cư vừa bị bắt, không chịu đựng được nhục hình nên đã khai ra mọi chuyện.

11 giờ đêm khởi nghĩa, vua Duy Tân cải trang dân thường đi xe ngựa đến bến Thương Bạc xuống thuyền  Thái Phiên và Trần Cao Vân chuẩn bị sẵn để đón. Lúc này, Toà khâm sứ Pháp ra lệnh giới nghiêm, cấm trại toàn bộ, thu tất cả vũ khí của nghĩa quân. Một mặt chúng bắt giam những nhân vật quan trọng của triều đìnhmột mặt bắt Trần Cao Vân, Thái Phiên phải đưa vua về. Vua Duy Tân và Thái Phiên bị bắt gần cửa Nam Giao, vua Trần Cao Vân cũng bị bắt tại Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.

Do không nhận được lệnh từ triều đìnhnhững đạo khởi nghĩa ở các tỉnh phải ngủ nghỉ, chờ đến sáng mai mới giải tán. Ở Tam Kỳ, tuy không nhận được hiệu lệnh song dân binh  phẫn uất đã xông đến bao vây toà đại sứ cùng quận lỵ, tên đại lý người Pháp và tri phủ Tạ Thúc Xuyên chạy trốn. Quân Pháp bắn chết một dân binh đang trèo lên cột cờ hạ lá cờ vàng xuống thay thế cho lá cờ khởi nghĩa.

Khâm sứ tại Huế và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng, nhưng ông không đồng ý và nói: “Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp”.

 

Pháp yêu cầu triều đình Huế phải xử nghiêm vụ này. Mùa hè năm 1916, Vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion, châu Phi với tội danh “Vọng thính sàm ngôn khuynh nguy xã tắc” (nghe lời xằng bậy làm nguy xã tắc) cùng chỗ với vua cha Thành Thái. Quan Thượng thư Hồ Đắc Trung được giao trách nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân và Thái Phiên nhận hết trách nhiệm về mình và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung đổ hết tội cho Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu với mức án tử hình.

Chỉ hơn 10 ngày sau khi bị bắt, ngày 17-5-1916, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị xử tại An Hòa (gần Thành nội Huế).

Trần Cao Vân và Thái Phiên là hai chí sĩ gắn bó với nhau trên mức ngũ đồng: đồng ái quốc, đồng ý chí, đồng tử, đồng tử, đồng huyệt. Tương truyền, khi đao phủ hành hình hai ông, có hai tia máu bắn lên bầu trời đỏ thắm và đột nhiên có đám mây từ đâu bay đến bao phủ cả trường bắn im vắng.

Khi Thái Phiên vừa mới bị hành hình xong, thân thể bê bết máu, một thiếu phụ vận bộ đồ tang trắng lao ngay đếnôm chầm chặt lấy. Bị quân lính lôi kéo, người phụ nữ buông ngay mái tóc dài của mình thấm đẫm dòng máu Thái Phiên anh hùng. Từ đó bà suốt nhiều tháng trời không chịu tắm gội, máu đông từng mảng trong tóc. Bà tên là Nguyễn Thị Băng, vợ của chí sĩ Thái Phiên. Về sau này bệnh yếu, bà không chịu uống thuốc chữa  chết theo chồng.

Tờ báo Trung Bắc tân văn số 136 phát hành ngày 27-5-1916 có đăng một tin ngắn nhan đề “Việc loạn Trung kỳ”: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều 16 Mai (tức tháng Năm), bốn người mưu việc khởi loạn Trung Kỳ đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách ga An Hòa 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân  và một người là Thái Phiên, cùng ở Quảng Nam cả. Còn hai người nữa là thị vệ hầu vua “.

Cuối năm 1922, hài cốt của Trần Cao Vân và Thái Phiên được bà Trương Thị Dương-người được vua Duy Tân cử vào Quảng Nam bắt liên lạc với Trần Cao Vân lúc trước – sai người đào đem về táng chung một mộ trong khu rừng bên cạnh chùa ở Nam Giao

3. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa: 

3.1. Nguyên nhân:

Cuộc khởi nghĩa Trung Kỳ năm 1916 là một cuộc vận động chính nghĩa đã hoàn toàn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch, tổ chức yếu kém, lỏng lẻo lại  nhiều sơ hở khiến mật thám Pháp dễ lọt vào trong tổ chức, số người tham gia thiếu kiên trì, thiếu một cuộc vận động rộng rãi trong quần chúng cho nên không thể nào kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa để cứu nước, thậm chí có người còn báo cáo với chính quyền khi thấy vua Duy Tân trên đường đi.

3.2. Ý nghĩa:

Cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân vào năm 1916 là một phần quan trọng của cuộc nổi dậy chống lại thực dân Pháp ở khu vực Trung Kỳ, và đặc biệt tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Sau sự bùng nổ ban đầu, sự trấn áp của thực dân Pháp đã trở nên khắc nghiệt và tàn khốc, với nhiều cuộc truy bắt và cuộc đàn áp. Tuy nhiên, tinh thần kiên trì và ý chí quật khởi của người dân xứ Quảng đã được thể hiện rõ qua cuộc khởi nghĩa này.

Với sự lãnh đạo của những nhân vật như Thái Phiên và Trần Cao Vân, cuộc khởi nghĩa này đã mang trong mình tinh thần yêu nước và quyết tâm chống lại ngoại xâm. Tuy cuộc khởi nghĩa có những khó khăn và thách thức, nhưng các sĩ phu và nhân dân tại Quảng Nam đã thể hiện ý chí cương cường và quyết tâm cao cả. Tầm quan trọng của tỉnh La Qua (Tam Kỳ) trong cuộc khởi nghĩa này cũng được nhấn mạnh, có thể hiểu rằng địa điểm này đã đóng vai trò quan trọng trong việc tụ họp, tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp.

Cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân năm 1916 đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử chiến đấu chống lại thực dân Pháp ở Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm của người dân Quảng Nam trong cuộc đấu tranh cho độc lập và tự do.