Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc siêu hay

Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc siêu hay
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc siêu hay tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Bài thơ Hầu Trời của nhà thơ Tản Đà rất hay và đặc sắc, mang chất giọng ngông nghênh nhưng dí dỏm của một tâm hồn mong được công nhận giữa cuộc đời. Để hiểu rõ hơn mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc siêu hay

1. Khát quát tác phẩm Hầu trời của Tản Đà:

* Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời:

– Được trích từ trong tập Còn chơi (1921)

– Bài thơ ra đời đúng lúc khuynh hướng lãng mạn đã tương đối thịnh hành trong văn học hiện đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, tối tăm, đầy rẫy bao điều bất công, xót thương. ..

* Bố cục:

– Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua… lạ lùng”

– Phần 2: “chủ tiên… chợ trời”: Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết”: thi nhân trò chuyện với trời.

* Nội dung: Bài thơ bộc lộ cái tôi cá thể ngông cuồng, phóng khoáng và y thức cao về năng lực, giá trị đích thực của bản thân cùng khát khao tự khẳng định bản thân giữa đời.

2. Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà:

2.1. Dàn ý 1:

Mở bài:

– Tác giả: Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Hà Tây, nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Ông là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng đầu thế kỷ XX của nền văn học Việt Nam;

– Tác phẩm: Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” xuất bản năm 1921 trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.

– Dẫn dắt vào phân tích tác phẩm

Thân bài:

* Tình huống nhà thơ lên hầu trời

– Trong đêm khuya: Âm vọng của những câu thơ vang khắp sông Ngân Hà, làm cho cả trời mất giấc ngủ -> nhà thơ được mời lên trên hầu trời.

– Tác giả tinh tế đặt vấn đề, không rõ câu chuyện sắp được kể có đủ hấp dẫn hay không.

– Vẫn mạnh mẽ khẳng định rằng đó là một câu chuyện là sự thật qua bốn câu “Thật hồn…” và loạt dấu cảm thán được sử dụng để khẳng định tính chân thực của câu chuyện.

-> Không phải là mơ màng, chẳng hề hoảng hốt, cách nói phủ định này tạo cảm giác rõ ràng rằng đây là một câu chuyện hư cấu, đồng thời cũng tạo niềm tin vào sự thật của nó.

-> Tản Đà đã rất khéo léo sử dụng cách vào đề độc đáo này, tạo ra không khí kì bí và hấp dẫn, làm tăng sự tò mò và sự hứng thú của người đọc trước những gì sẽ sắp được tiết lộ trong câu chuyện.

* Diễn biến buổi hầu trời

– Thi sĩ đọc thơ cho trời và chư tiên nghe: Thi sĩ đọc thơ với lòng tận hiến cho trời và các chư tiên, không khí ở nhà trời chào đón thân tình:

+ Đặt ghế cho họ ngồi, chuẩn bị nước uống.

+ Các chư tiên yên lặng đứng hai bên lắng nghe.

-> Không khí trong không gian rất phù hợp với buổi đọc thơ trang nghiêm này.

– Thi sĩ đam mê đọc thơ, từ văn vần sang văn xuôi, từ văn thuyết lí lại đến văn chơi, không đơn điệu một phong cách. Mỗi lần đọc, ông mang lại những cảm xúc mãnh liệt, khiến người nghe thích thú, thậm chí có cảm giác như “văn dài hơi tốt ran cung mây”.

– Các chư tiên thích mê nghe thơ của thi sĩ, tán thưởng không tiết, hâm mộ vô cùng. Ngay cả trời cũng không ngừng tán dương với những lời ca ngợi: “Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”, “Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày”, “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”, “Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay”…

->Tản Đà tự hào, ngạo nghễ và độc đáo trong cách diễn đạt. Ông tự tin và cá tính, mang trong mình màu sắc lãng mạn độc đáo.

-> Thi sĩ ý thức rõ về tài năng thơ văn của mình:

+ Tìm tri kỉ ở tận cõi trời, khao khát được khẳng định tài năng trước cuộc đời.

+ Tư tưởng thoát ly mang màu sắc lãng mạn, làm nổi bật cá tính riêng của ông.

–  Thi sĩ giới thiệu về bản thân

+ Họ tên bản thân, quê hương Sông Đà, núi Tản, vùng đất Nam Việt -> là một thi sĩ với ý thức cao về cá nhân và tinh thần dân tộc rất sâu sắc.

+ Thân thế là một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông nhưng điều đó không làm mờ đi tinh thần cao cả của Tản Đà.

+ Ông đã trở thành nhà thơ truyền bá những giá trị thiên lương, khát vọng làm hưng thịnh cho hạ giới.

+ Ý thức trách nhiệm và khao khát được gánh vác việc đời đã thúc đẩy ông đắm chìm vào thế giới của nghệ thuật và tâm hồn.

* Tâm sự của nhà thơ về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình:

– Khi trời hỏi về tình hình văn chương dưới hạ giới, thi sĩ không do dự mà nói lên cảnh ngộ của mình khi theo đuổi nghề văn trong xã hội thực dân phóng kiến:

+ không tấc đất cắm dùi

+ văn chương bị rẻ rúng

+ làm chẳng đủ ăn

+ bị o ép đủ chiều

-> Nghề văn cũng là một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống cơ cực, nghèo khó

-> Giọng thơ chua chát, xót xa

* Cảm xúc khi về lại trần gian:

– Hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng là khát vọng của ông: Truyền bá thiên lương

+ Tản Đà cho thấy tâm hồn lãng man nhưng không hề xa rời cuộc sống.

+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

+ Khao khát được gánh vác trách nhiệm -> Một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.

-> Phong cách thơ đan xen lãng mạn và hiện thực.

Kết bài:

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em

– Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân.

2.2. Dàn ý 2:

Mở bài:

– Giới thiệu bài thơ Hầu trời

Với lối thơ tự dophóng túngngang tàng, thể hiện niềm hỉ ái và yêu đời của tác giả. Thơ văn của ông giữa hai giai đoạn trung đại và hiện đại nên mỗi tác phẩm của ông mang một vẻ đẹp và sự độc đáo khác nhau. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất thể hiện được tâm hồn phóng túng của Tản Đà là tác phẩm Hầu trời. tác phẩm nói lên niềm trân trọng của tác giả với trời, coi trời chính là bạn của mình. Chúng ta sẽ đi tìm cái ngông của Tản Đà.

Thân bài:

* Phân tích bài thơ hầu trời

– Mở đầu bằng cách giới thiệu câu chuyện:

+ Câu chuyện xảy ra vào đem qua, một khoảnh khắc yên lặng, yên tĩnh

+ Câu chuyện kể về giấc mơ muốn lên cõi tiên của tác giả, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người thi nhân

+ Tâm trạng nữa thực nữa mơ của thi nhân

– Thi nhân đọc thơ cho trờ và Chư tiên nghe

+ Đọc thơ một cách hào hứng

+ Thi nhân kể về cuộc sống và công việc của mình

+ Giọng thơ của thi nhân hóm hỉnh, ngông

– Thái độ của người nghe:

+ Trời tỏ ra rất tâm đắc và khen ngợi thi nhân

+ Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và tâm đắc

– Thi nhân trò chuyện với trời:

+ Khẳng định cái tôi của mình

+ Cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái của tác giả

+ Cảm hứng nghệ thuật bao trùm nguyên bài thơ

Kết bài: Nêu cảm nhận của em về bài thơ Hầu trời

3. Phân tích bài thơ “Hầu trời”:

Tản Đà là một nhà thờ đặc biệt khi cả học vấn, cách viết và tác phẩm thơ văn của ông đều  dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Thơ văn của ông chinh phục công chúng bằng một điệu tâm hồn mới mẻ, với sự xuất hiện của “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa ngạo nghễ với cuộc đờilại xót thương ưu ái. Giữa lúc thơ phú nhà Nho tàn cuộc, Tản Đà có hướng đi riêng biệt, vừa tìm về cội nguồn thi ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tác đặc sắc và tài hoa. Thơ văn của ông được xem như một cái gạch nối giữa hai thời đại văn học dân tộc: Trung đại và hiện đại. Bài thơ “Hầu trời” là một trong những sáng tác minh chứng cho nhận định ấy.

Bài thơ mở đầu với bốn câu thơ đầy ấn tượng:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Bốn câu thơ đã gây ấn tượng với người đọc khi gợi ra một mối hoài nghi để kích thích trí tò mò. Chuyện có vẻ như mộng mơ, như hoang đường “chẳng biết có hay không”, nhưng thực ra  là thật, thực tuyệt đối tác giả đã củng cố sau lưng ba câu thơ bằng những lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột, lặp đi lặp lại như thể nhằm củng cố niềm tin. Cảm giác ấy làm cho câu chuyện mà tác giả sẽ kể trở nên có sức hút kỳ lạ, không ai có thể bỏ qua.

Những câu thơ kế tiếp tác giả kể lại được dẫn lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Cảnh đọc thơ cho Trời nghe được kể lại rất cụ thểchi tiết và vô cùng sống động. Lên thiên đình, thi sĩ được Trời mời ngồi “ghế bành như tuyết vân”, mời uống nước nhấn giọng và truyền “Văn sĩ đọc văn nghe”. Thi sĩ cao hứng:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
…….
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương
Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”

HHết tự khen mình rồi mượn lời của chư tiên, lại mượn tiếng của Trời  tự khen thơ mình, nhà thơ Tản Đà quả thực vô cùng tự tin và có dũng khí. Qua lời thơ rất hóm hỉnhhài hước mà thâm thuýta thấy  bản lĩnh của thi sĩ Tản Đà. Ông rất ý thức được tài năng của bản thân và cũng là nhà thơ dũng cảm, dám đường hoàng thể hiện bản ngã “cái tôi” mình. Ông cũng thật ngông cuồng khi dám lên tận giời để chứng minh năng lực của mình trước mắt Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là sự khát khao cháy bỏng trong lòng nhà thơ. Giữa chốn văn chương trần gian bạc bẽo, thân phận con người bị chà đạpvùi dập, ông không tìm thấy người tri kỉ, tâm giao, phải đến tận cõi đời này mới được toại nguyện.

Tản Đà cũng đã vẽ lên một bức tranh thật chân thực và xúc động cho cả đời mình cùng bao người khác – cuộc sống cay đắngtủi nhục của những nghệ sỹ tài năng trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ “

“Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán đường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”

Bao nhiêu là nỗi khổnghèo đói, không ruộng đất, thân phận bị chà đạpviệc làm không đủ sống, bị o ép đủ bềv.v. Bức tranh hiện thực ấy giúp người đọc hiểu sao Tản Đà cảm thấy “đời đáng chán”, “trần thế em nay chán nửa rồi”, vì sao ông lại tìm kiếm cõi tri kỉ tận trời cao, ông tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng, chư tiên để thoả niềm khát khao.

Qua khổ thơ “Hầu trời”, Tản Đà đã mạnh dạn bộc lộ bản ngã cái tôi, cái cá nhân, phóng khoángtự doý thức sâu sắc về năng lực và giá trị thật của bản thân cùng niềm khát khao tự khẳng định bản thân giữa đời. Hình thức thơ có nhiều biến hoáưu điểm: thể thơ lục bát truyền thống tương đối phóng khoáng, giọng điệu thoải mái, tự do, ngôn ngữ, bình dị dí dỏm.