Quê hương của Tế Hanh là một trong những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn đầu phong trào Thơ mới, và cũng là một trong những tác phẩm về tình yêu quê hương đất nước để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Dưới đây là một vài dàn ý cùng bài phân tích về bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Quê hương hay nhất:
1.1. Mở bài:
‐ Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm: Quê hương là bài thơ của nhà thơ nổi tiếng Tế Hanh.
‐ Khái quát nội dung tác phẩm: bài thơ thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả – một chàng trai xa quê.
1.2. Thân bài:
Hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ nhung của tác giả:
‐ Cách gọi giản dị mà đầy thương yêu ” Làng tôi vốn làm nghề chài lưới” → tác giả giới thiệu về một vùng quê ven biển với nghề chính là chài lưới, đánh cá
‐ Làng chài ở vị trí cách biển nửa ngày sông
→ Tác giả đã có một màn Giới thiệu tự nhiên nhưng cụ thể về một làng chài ven biển.
Bức tranh lao động của làng chài:
a.Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vào lúc sáng sớm bình minh
‐ Thời gian ra khơi: “sớm mai hồng” → gợi niềm tin, hy vọng trong lòng người.
‐ Không gian đẹp đẽ “trời xanh”, “gió nhẹ”
→ Người dân làng chài bắt đầu vào một buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn về một chuyến ra khơi đầy thắng lợi.
‐ Phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi bằng hình ảnh của chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã” cho thấy sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển.
‐ “Cánh buồm như mảnh hồn làng”: trong cánh buồm của con thuyền dường như chứa đựng hồn quê hương gần gũi, đó chính là biểu tượng của làng chài quê hương.
‐ Phép nhân hóa “rướn thân trắng” được sử dụng cùng với các động từ mạnh → con thuyền từ tư thế bị động chuyển thành chủ động
→
→ Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống của làng chài vào buổi sớm mai.
b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về
‐ Không khí: trên biển ồn ào, dân cư trên bờ thì tấp nập
‐-> Không khí tưng bừng vì đoàn thuyền đánh được nhiều cá
→ Thể hiện lòng biết ơn của người dân chài đối với biển cả vì đã ban cho nhiều tôm cá và đánh bắt thuận lợi
Hình ảnh người dân chài:
– Những người dân chài có làn da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”: vẻ đẹp khỏe khoắn vạm vỡ trong từng làn da thớ thịt của người dân chài được gợi lên thông qua phép tả thực kết hợp với lãng mạn
– Hình ảnh nhân hóa“con thuyền im bến mỏi trở về nằm” sử dụng với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác → Con thuyền trở nên có linh hồn, có sức sống giống như con người mà cũng nhuộm vị nắng gió xa xăm
→ Bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm.
Nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả:
Nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ được thể hiện rõ nét thông qua
‐ Màu xanh của nước
‐ Màu bạc của cá
‐ Màu vôi của cánh buồm
‐ Hình ảnh con thuyền
‐ Mùi mặn mòi của biển cả
→ Tác giả sử dụng những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng của vùng ven biển
→ Thể hiện nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương của nhà thơ
1.3. Kết bài:
‐ Khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm phẩm
‐ Bài học về lòng yêu nước, yêu quê hương.
2. Dàn ý phân tích bài thơ Quê hương ngắn gọn nhất:
2.1. Mở bài:
a.Tác giả:
‐ Tế Hanh: sinh năm 1921 mất năm 2009, tên khai sinh là Trần Tế Hanh. Ông sinh ra ở một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi.
‐ Ông góp mặt trong phong trào Thơ mới giai đoạn cuối (1930 – 1945) với những vần thơ chất chứa nỗi buồn và tình quê hương sâu nặng.
‐ Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông nổi tiếng với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương phương Nam và khát vọng thống nhất nước nhà. Năm 1996, ông được
b. Tác phẩm:
‐ Bài thơ được viết năm 1939 khi Tế Hanh đang học ở Huế khi nhớ về quê hương của mình – một làng chài ven biển. Bài thơ được trích trong tập Nghẹn ngào (1939), sau đó được in trong tập Hoa niên (1945).
‐ Bài thơ đã vẽ nên một bức tranh làng biển tươi sáng và sống động. Trong đó, nổi bật là hình ảnh khỏe khoắn của ngư dân, tràn đầy khí lực và hoạt động đánh bắt cá. Qua đó thể hiện tình cảm trong sáng, chân thành của nhà thơ về quê hương.
2.2. Thân bài:
a. Lời đề từ: “Chim bay dọc biển mang tin cá”:
Khái quát chung nhất về cuộc sống gắn liền với miền sông nước, trong cuộc sống của người dân làng chài mang hơi thở của biển cả mặn mòi. Quê hương của nhà văn là Quảng Ngãi.
b. Hai câu thơ đầu: “Làng tôi…nửa ngày sông”:
Bộc lộ vẻ đẹp quê hương với những nét địa hình đặc sắc “nước bao vây” như một hòn đảo nhô lên giữa muôn trùng sóng nước và khoảng cách địa lý được đo đếm“cách biển nửa ngày sông” rất đậm nét trong lời ăn tiếng nói của người dân miền sông nước.
c. 6 câu thơ tiếp “Khi trời trong…thâu góp gió”: Cảnh ra khơi của ngư dân
‐ “Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng”: Thời tiết thuận lợi, đầy màu sắc phấn khởi, cảm xúc lãng mạn dâng trào, tạo nên tâm trạng phấn khởi trước khi ra khơi.
‐ “Dân trai tráng bơi thuyền thuyền đi đánh cá”: Vẻ đẹp khỏe khoắn của
‐ “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã”: dùng để chỉ tinh thần hăng hái, sức mạnh, sự quyết tâm và vẻ đẹp hào hùng của con người trong công việc, bao giờ cũng hãnh diện, tự hào và tràn đầy quyết tâm.
‐ “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”: khi dùng động từ mạnh “phăng” để chỉ sức mạnh, tầm vóc của con người lao động, “trường giang” có nghĩa là sông rộng dài, nhưng khi nó đi vào thơ Tế Hanh thì lại trở thành bệ phóng cho tầm vóc kỳ vĩ của con người.
– “Cánh buồm giương cao như mảnh hồn làng/ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”:
Tác giả vẽ nên hồn làng, hồn quê bằng cánh buồm trắng, đặt cái trừu tượng với của hữu hình. Cánh buồm theo ngư dân ra khơi, mang theo nỗi mong chờ tha thiết của những người ở lại, đồng thời cũng là lời nhắc nhở, gợi nhớ của quê hương sâu nặng đối với những người con xa quê.
Cánh buồm không chỉ mang tính biểu tượng, mà bản thân nó dường như nhân tính. Con thuyền cùng với con người lao động cố gắng hết sức mình để đóng góp công sức trong công cuộc lao động của người ngư dân như một cách thể hiện tình cảm, sự ủng hộ của quê hương.
→ Sự đoàn kết trong lao động không chỉ thể hiện ở hành động, mà còn ở tâm hồn, để vật vô tri vô giác cũng cảm nhận được, nhờ đó tạo nên thành quả.
d. Bốn câu thơ tiếp: “Ngày hôm sau…bạc trắng”:
Cảnh dân làng đón thuyền trở về trong không khí hân hoan, hài lòng với thành quả đạt được sau cả ngày lao động.
‐ Biểu thị sự ấm no, yên vui trong khung cảnh “ồn ào”, “tấp nập”.
‐ Truyền thống yêu nước, biết ơn biết ơn mẹ thiên nhiên đã
e. Bốn câu tiếp “Dân chài lưới…thớ vỏ”:
Hình ảnh người ngư dân đậm đà hương vị biển cả với vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ nhưng cũng không kém phần cần cù trong cuộc sống mưu sinh.
‐ Hình ảnh con thuyền được nhân hoá, thể hiện tình cảm, nghe và cảm nhận sao mà vị mặn của quê hương thấm dần vào từng thớ vỏ, lặng lẽ nghĩ về những kỉ niệm vượt muôn trùng sóng biển.
→ Có thể thấy Tế Hanh là một nhà thơ rất nhạy cảm và tinh tế, cái nhìn của ông không chỉ hướng đến con người mà còn nhìn vào những thứ mà ông yêu quý, trân trọng để tô vẽ mọi thứ bằng tình cảm của mình.
f. Khổ thơ cuối: Nỗi nhớ của nhà thơ về quê hương.
2.3. Kết bài:
‐ Nêu cảm nhận cá nhân.
3. Dàn ý phân tích bài thơ Quê hương nhiều người sử dụng nhất:
3.1. Một bài:
‐ Sơ lược về đề tài quê hương
‐ Sơ lược về tác giả, tác phẩm
3.2. Thân bài:
a. Hai câu thơ đầu:
Giới thiệu ngắn gọn về làng quê với giọng điệu nhẹ nhàng, thân thương, vẽ nên hình dáng quê hương qua vị trí địa lý, khoảng cách biển cả,
b. Sáu câu thơ thiếp “Khi trời trong…thâu góp gió”:
Cảnh chèo thuyền diễn ra trong một khung cảnh thơ mộng tuyệt vời: trời trong, nắng chói chang, hồng ban mai.
‐ Ngư dân có sức khỏe tốt và tinh thần hăng hái.
‐ Con thuyền xuôi chèo mát mái ra khơi, dường như không bị cản trở, mạnh mẽ, tràn đầy sức sống như con ngựa đã trăm trận trăm thắng.
‐ Con thuyền thơ của Tế Hanh luôn chủ động, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, nhanh nhẹn, dũng mãnh trước sóng dữ.
=> Sóng to biển lớn, nhưng con tàu nhỏ vươn lên với tinh thần mạnh mẽ, sục sôi nhiệt huyết, biển dường như đã ngả vào nền xanh biếc càng làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ của biển cả và con tàu đánh cá
– So sánh “cánh buồm” và “hồn làng”, nêu tinh thần yêu nước, những người ở lại dõi theo từng bước chân của ngư dân,
– Việc nhân hóa hình ảnh cánh buồm với các từ “rướn” và “thâu” tạo cảm giác cánh buồm cũng tích cực tham gia vào công việc đoàn kết cùng ngư dân vươn khơi trên biển lớn.
c. Bốn câu thơ tiếp “Ngày hôm sau…thân bạc trắng”:
‐ Niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân làng chài khi đón con thuyền, tạo cảm giác ấm áp, bình yên trên biển.
‐ Sự biết ơn đối với biển cả quê hương, với mẹ thiên nhiên đã nuôi sống người dân quê hương bằng nguồn cá dồi dào.
d. Bốn câu thơ cuối:
‐ Vẻ đẹp của ngư dân, làn da rám nắng khỏe khoắn, thân hình mang hơi thở xa xăm của biển, người và biển như hòa vào nhau.
‐ Ánh mắt thương cảm, yêu thương của Tế Hanh đối với những sự vật của quê hương và con thuyền, ông cảm nhận được cả sự mệt mỏi và bình lặng của nó, như thể ông tin tưởng vào biển cả. Một tâm hồn nhạy cảm, biết kết hợp các giác quan khiến nhà thơ cảm nhận được tất cả tình yêu sâu nặng đối với biển quê hương.
3.3. Kết bài:
Nêu cảm nhận cá nhân về bài thơ.
4. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh hay nhất:
Quê hương luôn là đề tài vô tận đối với các thi nhân. Mỗi người có một cách nhìn và cảm nhận riêng về quê hương. Ta gặp thơ Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh viết về quê hương. Sự dịu dàng, mộc mạc của bài hát “Quê hương” của tác giả Tế Hanh đã làm người đọc rung động, khi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình.
“Quê hương” là hai từ đẹp đẽ mà tác giả dùng làm nhan đề cho bài thơ. Bài thơ mở đầu bằng sự giản dị, chân thành và sâu lắng:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
Hai câu thơ này tưởng chừng như rất tình cảm rất giản dị nhưng lại khiến người đọc hình dung rằng mảnh đất quê hương tác giả đã từng ở là một vùng một biển, làm nghề đánh cá. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị ấy luôn khiến nhà thơ chờ mong, nhớ nhung mỗi khi xa quê.
Những câu thơ sau đây gợi lên một cảnh đẹp khi thức dậy vào buổi sáng. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc làm cho bài thơ trữ tình, đẹp đẽ:
“Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.”
Một tập hợp các từ miêu tả phong cảnh về một buổi sáng yên tĩnh, trong xanh và tươi đẹp của cảnh biển vào bình minh. “Gió nhẹ”, “sớm mai hồng” đọng lại trong lòng nhà văn mỗi khi nhớ về quê hương. Và hoạt động đầu tiên trong ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả gợi lên rất nhẹ nhàng mà khỏe khoắn.
“Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
Nếu những câu thơ trên dịu dàng êm ái thì hai câu thơ sau lại mạnh mẽ, quyết liệt, khỏe khoắn hơn. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo, bức tranh đánh cá trở nên giàu hình khối, giàu đường nét và ẩn chứa một cá tính mạnh mẽ. Động từ “phăng” phần nào gợi lên sự kết hợp khéo léo giữa sự tinh tế và khỏe khoắn của người dân làng chài.
Hai câu sau trở lại trở lại với vẻ lãng mạn bất ngờ:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Một hình ảnh bình dị, quen thuộc như cánh buồm nhưng thơ Tế Hanh có hồn, có chất thơ. Sự ví von cánh buồm với “mảnh hồn làng” thật sâu sắc và ấn tượng, bởi đối với ngư dân cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Con thuyền mang theo bao niềm tin yêu, hạnh phúc và hy vọng của người dân nơi đây.
Câu thơ sinh động, tự nhiên đã phần nào thể hiện khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển cả.
Tế Hanh đã chụp được bức ảnh thiên nhiên tuyệt vời nhất và là tác phẩm sáng tạo nhất. Đó là niềm tự hào, ngợi ca quê hương, đất nước của nhà thơ.
Cảnh người đánh cá đón thành quả của một ngày vất vả và căng thẳng được thể hiện đặc biệt chân thực và tươi vui:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Hình ảnh những người dân làng chài “ồn ào”, “bận rộn” đã phần nào tái hiện không khí vui vẻ, hăng say của những ngư dân sau một ngày hoạt động hết mình. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được. Và có lẽ hình ảnh con người cường tráng, khỏe mạnh chính là hình ảnh trung tâm của bức tranh tuyệt đẹp này:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
Vẻ đẹp của những con người
Và có lẽ những hình ảnh quen thuộc của làng quê ấy đã khiến Tế Hanh dù đã đi xa không thể nào quên, vẫn nhớ mãi câu:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”
Một khổ thơ đầy cảm xúc làm dấy lên những cảm xúc nghẹn ngào trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất quê hương thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê da diết khi những hình ảnh quen thuộc ùa về.
Suy cho cùng, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là tình cảm của nhà văn đối với quê hương; mà bài thơ này còn nói lên nỗi lòng của bao người con xa quê khác. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chân rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.
5. Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh ý nghĩa nhất:
Quê hương là nguồn cảm hứng bất tận của biết bao thi nhân Việt Nam và đặc biệt là của Tế Hanh, nhà văn tham gia phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến với những bài thơ chân thành và sâu sắc về miền Nam thân yêu.
Trong thơ ông, ta thấy hơi thở nồng nàn của người dân xứ biển hay của dòng sông nắng chiều gắn liền với tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là một kỉ niệm tuổi thơ sâu sắc, là tác phẩm mở đầu cho cảm hứng thơ ca của Tế Hanh từ quê hương, bài thơ được viết bằng tất cả tình yêu thiên nhiên thơ mộng, hào hùng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ, kết hợp cả vần liền và vần ôm, phần nào cho thấy cảnh tất bật của làng chài ven biển:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.”
Quê hương trong tâm trí của hầu hết những người con Việt Nam là hình ảnh của mái đình, là hình ảnh giếng nước gốc đa, là món ăn canh rau muống chấm cà dầm tương. Nhưng trong tâm trí Tế Hanh, quê hương là một làng chài trên một cù lao giữa sông và biển, một làng chài bao bọc bởi tiếng sóng nước, cảnh làng quê hiện ra trước mắt thật sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng” không gian như trải rộng ra, bầu trời như cao hơn và ngập tràn ánh sáng.
Trời trong, gió nhẹ, nắng bình minh rực rỡ báo hiệu một ngày mới bắt đầu với nhiều hi vọng mới, một ngày mới với bao hứng khởi phấn khởi, biết bao người lên thuyền ra khơi:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
Nếu ở trên là miêu tả thiên nhiên thì ở đây là tả một bức tranh lao động sôi nổi, sống động. Con thuyền được so sánh với con tuấn mã, làm câu thơ thêm mạnh mẽ, thể hiện niềm vui phấn khởi của người dân chài. Ngoài ra, các động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả một cách ấn tượng khí thế hiên ngang, hung dữ của con thuyền, toát lên sức sống dạt dào, hừng hực. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế kiêu hãnh và hùng vĩ vô cùng:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Tác giả đã kết nối “hồn người” với cảnh vật, phải có một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim rung động trước cảnh vật quê hương mới có thể viết nên một bài thơ như vậy. Cánh buồm trắng, một hình ảnh quen thuộc, giờ đây trở nên rộng lớn và tự nhiên. Cánh buồm trắng đón gió vượt biển như hồn người hướng về tương lai sáng lạn. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng tâm hồn của quê hương nằm trong những cánh buồm. Hình ảnh thơ trên vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ, vừa diễn tả chính xác hình hài, vừa gợi được cái hồn của sự vật.
Ta thấy phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả thêm cụ thể hơn mà là gợi lên một vẻ đẹp bay bổng, giàu ý nghĩa. Đây là sự tinh tế của nhà thơ. Qua câu thơ này, cũng có thể hiểu rõ hơn bao nhiêu tình cảm thiêng liêng, niềm hi vọng về mưu sinh của người dân chài đã dồn lại trong cánh buồm căng gió. Dấu chấm lửng cuối câu thơ cho ta cảm tưởng về một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa mênh mông sóng nước, hình ảnh những con người trên con thuyền không đơn độc mà ngược lại, hiện lên rõ nét.
Cả bài thơ là cảnh quê hương và ngư dân ra khơi đánh cá, thể hiện nhịp sống sôi nổi của những con người năng động, nhiệt huyết, hy vọng, lạc quan:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Các tính từ “ồn ào”, “tấp nập” làm nổi bật không khí sôi nổi của những cánh buồm đánh cá trở về. Người đọc cảm thấy mình thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe những lời ca tụng chân thành trời đất đã phù hộ cho sóng yên, biển lặng để ngư dân trở về bình an và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không mô tả cụ thể việc đánh cá, nhưng chúng ta có thể hình dung đó là những giờ lao động không biết mệt mỏi để đạt được thành quả mong muốn.
Sau cuộc hành trình là hình ảnh con thuyền và con người trở về nơi nghỉ ngơi:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Có thể nói đây là những dòng hay nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình dáng “làn da rám nắng” dường như để lại ấn tượng rất sâu sắc, thì khổ thơ tiếp theo lại được miêu tả với cảm giác rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” Thân hình vạm vỡ của ngư dân đầy mùi biển cùng vị mặn mòi của đại dương bao la. Nét đặc sắc của đoạn thơ là đã làm nổi bật cả tâm hồn và hình vóc của con người biển cả. Hai câu thơ tả con thuyền nằm im lìm trên bến cũng là một nghệ thuật đặc sắc. Nhà thơ nhìn thấy con thuyền nằm im trên bến cũng như sự mỏi mệt của nó. Như một người đánh cá, con thuyền mang vị mặn của nước biển, con thuyền như lắng nghe được chất muối của biển thấm vào từng thớ thịt của mình như thế nào. Con thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không một ngư dân nào có thể viết hay, đẹp đến thế và những câu thơ như thế chỉ có thể viết được khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cả tâm hồn lắng nghe cảnh vật. Đó là tiếng gió rít khe khẽ chào ngày mới, là tiếng sóng ngược dòng, là tiếng chợ cá ồn ã và cả những âm thanh hội tụ trong từng thớ thịt thuyền.
Có lẽ cái chất mặn mòi này cũng đã thấm sâu vào da thịt, tâm hồn nhà thơ, trở thành một sự ám ảnh kỳ diệu, lay động. Cái tinh tế và cái tài của Tế Hanh là ở chỗ ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như một mảnh “hồn làng” trong “cánh buồm giương buồm”. Từ đáy lòng njaf thơ nói lên tình yêu quê hương sâu sắc của một người con xa quê:
‘Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.”
Nếu không có những câu thơ này ta đâu biết nhà thơ đang xa quê, trước mắt ta hiện ra một khung cảnh hết sức sống động, nhưng dẫu sao nó cũng được viết ra từ tâm trí của một người con xa quê, để rồi ta hiểu rằng quê hương luôn ở trong lòng của tác giả. Trong tiềm thức của nhà thơ, quê hương luôn hiện hữu trong mọi suy nghĩ, cảm xúc. Nỗi nhớ quê hương da diết biến thành những lời thật giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
Tế Hanh giản dị xuất hiện trong phong trào Thơ mới, nhưng ông không có những suy nghĩ u mê về cuộc đời, thoát ly thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời bấy giờ. Thơ Tế Hanh là hồn nhà thơ, hòa quyện với hồn quê, hồn nhân dân, trong “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” hai tiếng thân thương và thiêng liêng nhất, luôn ở trong tấm lòng của người con xa quê. Bài thơ có giọng điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động gây hứng khởi cho người đọc, ngôn ngữ hùng hồn gợi một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.