Câu chuyện Em bé thông minh này dạy chúng ta rằng trí thông minh và lòng kiên nhẫn luôn là những phẩm chất quý báu. Dưới đây là bài viết cung cấp thông tin về Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em hay nhất.
1. Dàn ý Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em:
1. Mở bài:
– Giới thiệu truyện: Truyện xảy ra từ ngày xưa, ngày xửa, trong một đất nước xa xôi.
– Nhà vua đang tìm người tài giỏi để giúp vua cai trị đất nước.
2. Thân bài:
Diễn biến của truyện:
– Viên quan được giao nhiệm vụ tìm kiếm người tài khắp nơi, nhưng chưa gặp ai thực sự lỗi lạc.
– Đến một làng quê, viên quan gặp hai người nông dân, một cha và con trai, đang làm đồng.
– Cuộc đối đáp giữa viên quan và chú bé thông minh, con trai người nông dân.
– Viên quan tin rằng chú bé là người tài, và anh ta vội vã trở về báo cáo vua.
– Nhà vua
– Hai cha con chú bé phải rời làng quê và bắt đầu hành trình đến kinh đô.
– Chú bé gặp nhà vua và bắt đầu cuộc đối đáp giữa họ.
– Chú bé vượt qua một loạt thử thách một cách thông minh và dễ dàng.
– Chú bé giúp nhà vua và triều đình thực hiện công việc khó khăn mà sứ thần của một nước láng giềng đã thách đố: xỏ sợi chỉ qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc.
3. Kết bài:
– Nhà vua và cả triều đình đều kính phục trí thông minh kỳ lạ của chú bé.
– Chú bé được nhà vua phong chức Trạng nguyên và được tặng một dinh thự trong cung.
– Chú trở thành một người giúp đỡ rất đắc lực trong việc cai trị đất nước cho nhà vua.
Câu chuyện kết thúc với hình ảnh của chú bé thông minh trở thành một người có địa vị và vị trí quan trọng trong triều đình, nhờ sự thông minh và khả năng vượt qua mọi khó khăn.
2. Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em hay nhất:
2.1. Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em hay 1:
Một thời xưa, tại một đất nước xa xôi, có một nhà vua tài ba và thông minh. Tuy nhiên, ông vua luôn cảm thấy rằng để cai trị đất nước một cách tốt nhất, ông cần một người thật sự thông minh và khôn ngoan để đứng cùng mình. Vậy là, nhà vua quyết định tìm kiếm người tài giỏi nhất trong vương quốc.
Một viên quan được giao nhiệm vụ đặc biệt này. Anh ta lưu lạc khắp nơi, đi từ làng này đến làng khác, từ miền quê đến thành thị, nhưng không gặp ai có khả năng đặc biệt cả. Ngày trôi qua, tháng trôi qua, viên quan trở về mệt mỏi và không thấy hy vọng.
Một ngày nọ, trong hành trình của mình, viên quan đến một ngôi làng nhỏ. Ở đó, anh ta gặp một người nông dân và con trai của ông đang cày ruộng. Cả hai cha con làm việc vất vả, nhưng có vẻ rất hạnh phúc.
Viên quan đến và bắt đầu đối đáp với con trai của người nông dân. Cậu bé có vẻ thông minh và lanh lợi hơn bất kỳ đứa trẻ nào viên quan từng gặp. Chú bé trả lời mọi câu hỏi của viên quan một cách thông minh và hóm hỉnh.
Viên quan tự tin rằng chú bé là người tài, và anh ta quyết định phi ngựa về báo cáo vua. Nhà vua kín đáo quyết định thử tài cậu bé thông minh bằng một thử thách đặc biệt: bắt dân làng nuôi trâu đực để đẻ trâu con.
Hai cha con cậu bé phải rời làng quê và bắt đầu hành trình đến kinh đô. Trong quá trình đi, cậu bé gặp nhà vua và bắt đầu cuộc đối đáp giữa họ. Chú bé không chỉ thông minh, mà còn rất kiên nhẫn và thấu hiểu.
Chú bé vượt qua mọi thử thách một cách dễ dàng và tự tin. Nhà vua và cả triều đình thán phục trí thông minh kỳ lạ của cậu bé. Cuối cùng, chú bé được nhà vua phong chức Trạng nguyên và tặng một dinh thự trong cung.
Chú bé trở thành người có địa vị và vị trí quan trọng trong triều đình, giúp nhà vua cai trị đất nước một cách tốt đẹp. Câu chuyện này dạy chúng ta rằng trí thông minh và lòng kiên nhẫn luôn là những phẩm chất quý báu, và không có việc gì là quá khó nếu chúng ta dám đối mặt và thử thách bản thân.
2.2. Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em hay 2:
Ngày xưa, có một người vua muốn tìm một người tài giỏi để giúp quản lý đất nước. Ông vua quyết định sai một viên quan ra đi khắp vương quốc để tìm kiếm người phù hợp.
Một ngày nọ, viên quan đến một làng quê nơi hai cha con đang cày bừa. Viên quan quyết định đến gần và hỏi người cha: Xin lỗi, ông kia! Trâu của ông cày được mấy dặm một ngày?
Người cha không biết phải trả lời thế nào, khi đó, cậu bé con trai chỉ mới bảy, tám tuổi đã nói: Nếu ông trả lời được câu hỏi của tôi, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày được mấy dặm một ngày.
Viên quan bối rối và không thể trả lời được. Tuy nhiên, anh ta mừng rỡ vì đã tìm thấy người tài và vội vàng quay trở lại báo cáo với nhà vua.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực. Nhà vua ra lệnh rằng họ phải nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con trong vòng năm năm và phải đem đủ số trâu và gạo nếp đó tới nếu không cả làng sẽ bị
Dân làng lo lắng và không biết phải làm gì. Cậu bé đề nghị cha mình nên bảo dân làng giết thịt hai con trâu và nấu hai thúng gạo nếp để mọi người cùng ăn một bữa ăn thịnh soạn. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp thì nên bán đi để lấy tiền làm lễ phí cho hai cha con cậu trong cuộc hành trình đến hoàng cung.
Dân làng ban đầu cảm thấy ngần ngại, nhưng cuối cùng họ tin tưởng vào lời đề nghị của cậu bé và bắt họ viết giấy cam đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé chuẩn bị lên đường. Khi đến hoàng cung, cha của cậu bé ở lại ngoài cung, trong khi cậu bé lẻn vào trong sân rồng và bắt đầu khóc lóc.
Nhà vua nghe thấy tiếng khóc và sai một viên quan ra hỏi cậu bé: Sao cậu đến đây và khóc thế?
Cậu bé, trong lúc này mới trả lời: Ôi, đức vua thân yêu, mẹ tôi qua đời sớm, và cha tôi không lấy vợ khác nên tôi không có bạn chơi. Vì thế tôi đến đây và khóc lóc. Mong đức vua có thể cho phép cha tôi lấy vợ mới để tôi có bạn chơi.
Nghe cậu bé nói như vậy, nhà vua và các triều thần đều bật cười. Nhà vua nói: Để có em, cha cậu phải lấy vợ khác thôi, không thể để con trai ở một mình.
Cậu bé đáp: Vậy làm ơn cho phép cha tôi lấy vợ mới, đức vua thân yêu!
Câu chuyện này dạy chúng ta rằng thông minh và
Vua cười và giải thích: Ta chỉ muốn kiểm tra lòng trung thành của làng chúng mày thôi. Ta biết rằng trâu đực không thể đẻ con được.
Cậu bé nhanh nhẹn trả lời: Chính vì vậy, làng của chúng con đã nấu bữa ăn thịnh soạn để chúng mọi người cùng ăn chúc mừng lễ phí của vua. Chúng con biết rằng đó là lộc của vua, và chúng con không dám sử dụng nó cho mục đích khác.
Nhà vua nghe lời của cậu bé và cười tỏ ra hài lòng với lòng trung thành của làng.
Một hôm, một sứ giả của nhà vua đến công quán nơi cậu bé và cha mình đang ăn cơm. Sứ giả mang theo một con chim sẻ và lệnh từ vua rằng cậu bé phải dọn ra ba bữa ăn từ con chim này. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim và nói: Ông hãy mang cái kim này về cho vua và yêu cầu ông rèn cho tôi một cây dao để xẻ thịt con chim này.
Sau khi sứ giả trở về với vua và thực hiện yêu cầu của cậu bé, nhà vua thấy cậu bé thông minh và tài năng. Hồi đó, có một nước láng giềng muốn xâm chiếm đất nước của nhà vua. Họ đã đặt một câu đố khó khăn để kiểm tra sự thông minh của người dân trong đất nước của nhà vua. Câu đố đó là làm sao xâu một sợi chỉ mỏng qua đường ruột của một con ốc.
Những đại thần trong triều đình đã cố gắng nhiều cách nhưng không thể giải quyết được câu đố này. Cuối cùng, triều đình đã mời viên quan đến công quán và đã kéo dài thời gian tìm kiếm người giải câu đố.
Một ngày nọ, cậu bé đang chơi ở sau nhà khi nhận được chỉ dụ từ vua. Nghe câu chuyện của viên quan, cậu hiểu cách để giải quyết câu đố và hát cho viên quan nghe:
“Tang tình tang! Tính tình tang Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…”
Viên quan vui vẻ quay trở về triều đình và thực hiện theo lời cậu bé. Nhờ sự thông minh của cậu, họ đã xâu được sợi chỉ mỏng qua đường ruột của con ốc. Sứ giả của nước láng giềng nghe được câu trả lời này và thán phục. Từ đó, nhà vua đã phong cậu bé làm trạng nguyên và đón cậu vào cung vua để học hành.
Câu chuyện này dạy chúng ta rằng sự thông minh và sáng tạo có thể giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn và kiểm tra lòng trung thành của mình trong những tình huống khó khăn.
3. Kể lại truyện Em bé thông minh bằng lời văn của em sâu sắc nhất:
Vua cười và giải thích: Ta chỉ muốn kiểm tra lòng trung thành của làng chúng mày thôi. Ta biết rằng trâu đực không thể đẻ con được.
Cậu bé nhanh nhẹn trả lời: chính vì vậy, làng của chúng con đã nấu bữa ăn thịnh soạn để chúng mọi người cùng ăn chúc mừng lễ phí của vua. Chúng con biết rằng đó là lộc của vua, và chúng con không dám sử dụng nó cho mục đích khác.
Nhà vua nghe lời của cậu bé và cười tỏ ra hài lòng với lòng trung thành của làng.
Một hôm, một sứ giả của nhà vua đến công quán nơi cậu bé và cha mình đang ăn cơm. Sứ giả mang theo một con chim sẻ và lệnh từ vua rằng cậu bé phải dọn ra ba bữa ăn từ con chim này. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim và nói: Ông hãy mang cái kim này về cho vua và yêu cầu ông rèn cho tôi một cây dao để xẻ thịt con chim này.
Sau khi sứ giả trở về với vua và thực hiện yêu cầu của cậu bé, nhà vua thấy cậu bé thông minh và tài năng. Hồi đó, có một nước láng giềng muốn xâm chiếm đất nước của nhà vua. Họ đã đặt một câu đố khó khăn để kiểm tra sự thông minh của người dân trong đất nước của nhà vua. Câu đố đó là làm sao xâu một sợi chỉ mỏng qua đường ruột của một con ốc.
Những đại thần trong triều đình đã cố gắng nhiều cách nhưng không thể giải quyết được câu đố này. Cuối cùng, triều đình đã mời viên quan đến công quán và đã kéo dài thời gian tìm kiếm người giải câu đố.
Một ngày nọ, cậu bé đang chơi ở sau nhà khi nhận được chỉ dụ từ vua. Nghe câu chuyện của viên quan, cậu hiểu cách để giải quyết câu đố và hát cho viên quan nghe:
“Tang tình tang! Tính tình tang Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…”
Viên quan vui vẻ quay trở về triều đình và thực hiện theo lời cậu bé. Nhờ sự thông minh của cậu, họ đã xâu được sợi chỉ mỏng qua đường ruột của con ốc. Sứ giả của nước láng giềng nghe được câu trả lời này và thán phục. Từ đó, nhà vua đã phong cậu bé làm trạng nguyên và đón cậu vào cung vua để học hành.
Nhận lệnh của vua, cả làng lo lắng. Cậu bé nghe xong chuyện liền đề nghị với cha: Cha ơi, chẳng mấy khi được lộc vua ban như thế này, thì chúng ta cứ thưa với làng làm thịt hai con trâu và dùng hai thúng gạo nếp để làm một bữa ăn thịnh soạn cho mọi người. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn để trả nợ cho nhà vua.
Người cha nghe xong, rồi ra đình kể câu chuyện này cho làng nghe. Cả làng lúc đầu vô cùng ngờ vực, nhưng khi bắt cha con cậu bé viết giấy cam đoan, họ mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói bắt đầu hành trình đến hoàng cung. Đến cung điện, cha con cậu bé đứng ở ngoài, còn cậu bé lẻn vào sân rồng và khóc lóc. Nhà vua nghe thấy tiếng khóc liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi: Cậu bé kia, sao lại đến đây mà khóc?
Cậu bé lúc đó mới trả lời: Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói: Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?
Người cha, mặc dù lo lắng, nhưng đã tin tưởng vào khả năng của cậu bé, đồng tình với ý kiến của con trai. Họ ra đình để
Sáng hôm sau, hai cha con cậu bé bắt đầu hành trình đến hoàng cung. Tới cung điện, cậu bé lẻn vào sân rồng và khóc lóc. Nhà vua nghe thấy tiếng khóc liền sai người đưa cậu vào. Vua hỏi: Tại sao cậu đến đây lại khóc thế?
Nghe câu chuyện của cậu bé, vua và triều thần đều bật cười. Vua nói: Đàn ông làm sao mà sinh em bé được. Muốn có em bạn, cha cậu phải tái hôn với người khác chứ.
Cậu bé liền thưa với vua:Thế sao lại có lệnh bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực để đẻ thành chín con để nộp đức vua? Đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Cảnh tượng này khiến mọi người ở cung cười đầy hạnh phúc. Sau đó, vua lại giao nhiệm vụ khó khăn hơn cho cậu bé.
Vua sai người đem đến một con chim sẻ và đưa cho cậu bé lệnh làm thành ba bữa thức ăn từ con chim đó. Cậu bé suy nghĩ một lúc rồi đưa một cái kim may cho người đưa lệnh, nói: Ông cầm cái kim này về tâu vua và xin rèn cho tôi một con dao để xẻ thịt con chim.
Vua nghe xong, thán phục tài trí của cậu bé và ban thưởng rất hậu.
Khi đó, có một nước láng giềng luôn âm mưu xâm lược nước của vua. Họ đã sai một viên sứ giả đến đưa một câu đố rất khó. Sứ giả mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu, và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm sao để xâu được sợi chỉ qua đường ruột của con ốc. Các quan thử mọi cách, nhưng không ai
Viên quan đến làng và nói chuyện với cậu bé. Cậu bé không lâu sau đã đưa ra cách giải bằng cách hát:
Tang tình tang! Tính tình tang Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…
Viên quan hiểu ra cách làm và trở về cung vua. Vua sau đó ban thưởng cậu bé và sai người xây dinh thự trong hoàng cung để tiện hỏi thăm và học hỏi từ cậu bé thông minh này.