Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ

Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ
Bạn đang xem: Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ:

*Mở bài:

Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, ngày sinh, nơi xuất bản, ý kiến chung của dư luận,…) và nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài.

*Thân bài:

– Phân tích, đánh giá dòng ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình hung (nhân vật trữ tình cảm muốn thể hiện điều gì, qua hình ảnh nào, với ánh mắt, thái độ ra sao,… ).

– Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính (qua khổ thơ, đoạn văn) và tính độc đáo của phương tiện ngôn từ được sử dụng (từ ngữ, vần điệu, nhịp điệu và các biện pháp khác).

– Phân tích, đánh giá sức hấp dẫn độc đáo của bài thơ so với các tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của tác giả khác).

*Kết bài:

Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài văn nghị luận.

2. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ:

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất đặc biệt và độc đáo. Ông đã để lại nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần tạo nên danh tiếng cho nhà thơ.

Hình ảnh mùa xuân ở quê thật yên bình, hữu tình và tràn đầy yêu thương. Trong làn sóng nhẹ nhàng của bầu trời, làn khói xa xa dường như tan biến, tạo nên vẻ đẹp mộng mơ, có cảm giác chân thực, không quá chi tiết, chỉ là một vài bóng lấm chấm nhưng ta không khỏi xao xuyến trước bầu trời yên bình lúc này. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trời báo xuân về, xuân về, cỏ cây, thiên nhiên, đất trời và lòng người như hòa mình vào nhau:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”

Vạn vật đều mang năng lượng mùa xuân, tắm trong mưa xuân, thêm sức sống mới cho cỏ cây, “gợn sóng lên trời” như đang đùa giỡn với nắng, gió và mây. Tiếng hát xuân của bao cô gái làng đầy yêu thương. Khi mùa xuân đến, ai cũng vui tươi, rộn ràng, tâm hồn tràn đầy sức trẻ và yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

” Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”

Tình yêu cuộc sống được khắc họa qua lời ca ngây thơ, trong sáng, tinh nghịch của “tiếng hát” sau lưng núi hòa vào cảnh vật, vang vọng mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “tự phát” “thì thầm” với nhau, đầy ý nghĩa và trìu mến. Âm thanh của thơ đầy tính nghệ thuật khiến người ta cảm thấy phấn khích và xào xạc lạ lùng.

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Nếu ở khổ thơ đầu có hình ảnh cỏ cây xanh tươi thì đây là hình ảnh trái ngược khi mùa xuân chín muồi, mùa xuân không còn thi vị như vừa hát mà là màu tiếc nuối, màu của nắng, màu làng quê. “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Âm “ang” ở cuối bài thơ mang lại cho bài thơ một cảm giác buồn bã khó tả như lòng người nhẹ nhõm hơn, bớt nặng nề buồn bã hơn cho số phận người con gái:

” Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Bài thơ rất nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị nhưng nhà thơ đã lựa chọn rất tinh tế. Mỗi lời thơ là một bầu trời yêu thương mang theo cả nỗi đau, nỗi nhớ nhung cho giấc mơ trở về quê hương khó khăn, gian khổ. Bằng ngôn ngữ kết tinh và trái tim nhân hậu, Hàn Mặc Tử đã viết nên một “xuân chín” tròn trịa, mượt mà, đầy đam mê.

3. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ hay nhất:

3.1. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ hay nhất – mẫu 1:

Đỗ Phủ là một nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những bài thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ những cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực cuộc sống của người dân trong chiến tranh và nạn đói, lòng yêu nước và tinh thần nhân đạo. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là hình ảnh một mùa thu thoáng đãng, u ám, vừa là hình ảnh tâm trạng u ám của một gia đình trong khung cảnh hỗn loạn nên thơ; lo lắng tình hình đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn, hỗn loạn; nhớ quê hương xa xôi và cảm thấy bình yên, buồn bã cho số phận bất hạnh của mình nơi xứ người.

Người đọc sẽ liên tưởng ngay đến hình ảnh đặc trưng của vùng đất Ba Thục xưa – nơi mà toàn bộ khung cảnh được bao bọc trong hơi thở u ám. Trong bài thơ, Vu Sơn, Vu Giáp có nghĩa là núi Vu, hẻm Vung nổi tiếng về sự trở lại và uy nghiêm, được nhắc đến nhiều lần trong thần thoại, truyện cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm mây che phủ núi cao vút; Vách đá được xây dựng như vậy nên ánh nắng khó có thể xuyên tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn trong lành, mát mẻ và dễ chịu, qua ngòi bút của Đỗ Phủ, nó càng hiện lên u ám.

Hai khổ thơ mở đầu, khổ thơ đầu tả cảnh mùa thu ở rừng phong, khổ thơ thứ hai tả cảnh mùa thu trên núi. Những phong cảnh tuy khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng bằng ánh mắt và tâm trạng giống nhau – một tâm trạng nặng trĩu nỗi buồn. Hai câu thơ tuy đều là hình ảnh rừng núi nhưng có một điểm chung, đó là nỗi buồn ngày càng dâng cao trong tác giả, nỗi buồn đó lấn át tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi đặt bút đọc thơ.

Cũng với tâm trạng đó, Đỗ Phủ viết những câu thơ tiếp theo thật tinh tế, đầy cảm xúc, như có sức mạnh thần kỳ làm say đắm tâm hồn con người:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Hai cặp câu dường như bổ sung cho nhau, truyền tải hai nét độc đáo về cảnh quan vùng Vũ Sơn Vu Giáp, vừa u ám vừa hùng vĩ. Chúng ta vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua con mắt nhà thơ và được miêu tả bằng ngòi bút tài hoa thành những vần thơ tuyệt vời. Hình ảnh mặt đất với mây rồng ở cổng xa mô tả cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức nhìn từ mặt đất trông có màu đỏ, che mất cổng phía xa. Dù bốn câu thơ miêu tả cùng một cảnh nhưng mỗi câu thơ đều có dấu câu rõ ràng, ghi nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, núi rừng xuất hiện vừa đặc trưng vừa đặc biệt cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này lại khiến tác giả nhớ quê hương vô cùng.

3.2. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ hay nhất – mẫu 2:

Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không miêu tả hình ảnh thiên nhiên vùng chiến sự Việt Bắc trong một đêm trăng sáng nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như lòng yêu nước sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh ánh trăng về đêm ở chiến khu Việt Bắc

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”

(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)

Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng âm lịch được gia đình miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng này dường như bao phủ toàn bộ núi rừng Việt Bắc, khiến khung cảnh trở nên ấm áp hơn. Ở câu tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:

“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”

(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)

Ba chữ “mùa xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống, sắc màu của mùa xuân đang trỗi dậy trong mọi không gian. Chữ “tiếp” mang lại cho người đọc cảm giác như đất trời đang hòa hợp với nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy, hai câu mở đầu bài thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên những đêm trăng rằm, tràn đầy sức sống.

Phải chăng vì mải mê bàn việc làm nước nên khi về thì đã khuya? Lúc này, ánh trăng sáng hơn bao giờ hết. Hình ảnh “thuyền trăng” muốn thể hiện sức lan tỏa sức mạnh của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng âm lịch. Qua đó, Bác Hồ muốn bày tỏ mong muốn thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc dường như thấy được một thái độ thong thả, lạc quan và niềm tin vĩnh cửu rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.

“Rằm tháng giêng”  là một bài thơ viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt  mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, dòng sông, trời đất, thuyền bè. Cùng với sự kết hợp giữa biện pháp tu từ ám chỉ đã giúp nhà thơ miêu tả một cách sống động hình ảnh ánh trăng về đêm ở chiến khu Việt Bắc.

Qua bài thơ trên, chúng ta không chỉ tìm thấy tâm hồn nhà thơ buồn bã, đa cảm mà còn tìm thấy một con người kiên cường, trung thành với cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.