1. Dàn bài phân tích Bạch Đằng giang phú:
Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Trương Hán Siêu.
– Giới thiệu về thể loại phú và dẫn dắt giới thiệu bài thơ.
Thân bài:
Luận điểm 1: Cảm xúc lịch sử của nhân vật “khách” trước cảnh sắc trên sông Bạch Đằng:
– Nhân vật “khách”: Tác giả đã hóa thân của mình vào hình tượng nhân vật “khách”, tạo nên lối đối đáp chủ – khách thường có trong thể phú.
– “Giương buồm…chơi vơi…mải miết”: Miêu tả tâm thế dạo chơi, ngắm cảnh ung dung, phóng khoáng.
Những địa danh mà nhân vật “khách” đã tới:
– Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
=> Đây đều là những thắng cảnh nổi tiếng gắn với không gian sông nước, điều này chứng tỏ khách là người đi nhiều, hiểu biết rộng, mang tráng chí làm bạn với gió trăng, qua nhiều miền sông bể bằng trí tưởng tượng, hiểu biết.
– Việt Nam: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng.
=> Đây cũng đều là những địa danh gắn với non sông, đất nước, lịch sử dân tộc. Qua đó, thể hiện được tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên của đất nước ta.
Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng:
– “Sóng kình muôn dặm”: Sóng kình là những con sóng lớp lớp nối đuôi nhau mở ra không gian rộng lớn của của vùng sông nước.
– “Đuôi trĩ một màu”: Không gian thơ mộng, thiết tha cùng với những con thuyền nối đuôi nhau trên dòng sông.
– “Nước trời”: một sắc, phong cảnh: ba thu.
– “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”: Tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo đầy lá lách, lau sợi.
– “Giáo gãy, xương khô”: Tả cảnh chiến trường xưa, chốn tử nạn của quân địch.
=> Miêu tả cảnh sắc thiên nhiên vừa hùng vĩ, tráng lệ, thơ mộng, thướt tha nhưng mang phần ảm đạm, cô quạnh, hiu hắt.
Tâm trạng của nhân vật khách:
– Phấn khích, vui thú trước cảnh trời kì vĩ.
– Khi cảnh vật trở nên đìu hiu, hoang vắng thì tỏ ra tâm trạng buồn tiếc.
– Trở nên tiếc thương với những người anh hùng đã khuất.
=> Diễn tả tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc.
Luận điểm 2: Lời kể của các bô lão về những chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng:
– Hình ảnh các bô lão: Là những bậc cao niên, có thể là chứng nhân lịch sử hoặc hình ảnh hư cấu, sự phân thân của tác giả để kể với nhân vật khách vê những chiến công trên sông Bạch Đằng.
– Thái độ của các bô lão: Những từ ngữ “vái”, “thưa”, cho thấy sự nhiệt tình, hiếu khách, trân trọng của các bô lão đối với khách
Cảnh chiến đấu trong lời kể của các bô lão:
– “Thuyền tàu muôn đội, gươm giáo sáng chói”: Miêu tả lực lượng có quy mô hùng hậu, kĩ lưỡng, hào khí ngút trời.
– “”Những tưởng gieo roi một lần quét sạch/ Nam bang bốn cõi”: Thái độ của giặc kiêu ngạo, khoác lác, hống hách, ngạo mạn.
– Kết quả: Hung đồ hết lối, khác nào…chết trụi.
=> Nói lên sự chiến thắng oanh liệt vang dội của nhân dân ta và những thất bại ê chề nhục nhã của địch.
Luận điểm 3: Suy nghĩ, bình luận của các bô lão về những chiến tích xưa:
Nguyên nhân thắng lợi của ta:
– Trời đất cho nơi hiểm trở.
– Nhân tài giữ cuộc điện an.
=> Yếu tố làm nên thắng lợi là thiên thời – địa lợi – nhân hòa, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của yếu tố con người.
– Gợi lên hình ảnh Trần Quốc Tuấn và so sánh với những người xưa.
=> Khẳng định tài năng, sức mạnh của con người, tiêu biểu là những lãnh đạo, từ đó thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.
Luận điểm 4: Suy ngẫm về hưng vong của đất nước:
Lời ca của các bô lão:
– Bất nghĩa: Tiêu vong.
– Anh hùng: Lưu danh.
=> Tuyên ngôn chân lí vĩnh hằng, bất biến là quy luật đời đời kiếp kiếp từ xưa đến nay.
Lời hòa ca của khách:
– Anh minh hai vị thánh quân.
– Bởi đâu…cốt đức mình cao.
=> Khẳng định nguyên nhân chiến thắng là lẽ sống, đạo đức, khát vọng được tự do hòa bình và đường lối giữ nước tài tình của nhà Trần.
=> Lời ca kết thúc bài phú vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Luận điểm 5: Nêu nội dung,
Gợi nhớ khung cảnh trận chiến vang dội của nhân dân ta, từ đó thể hiện được lòng yêu nước, ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc, chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp, đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
Với bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động, xây dựng những hình tượng nhân vật đặc sắc, mang ý nghĩa triết lí, ngôn ngữ cô đọng, trong sáng hào hùng.
Kết bài:
– Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Qua đó nêu cảm nhận của mình về bài thơ Phú sông Bạch Đằng
– Đánh giá nội dung, phong cách nghệ thuật của tác giả sử dụng trong bài thơ.
2. Phân tích bài Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu:
Trương Hán Siêu là một danh nhân văn hóa lớn của đời Trần – người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, tính tình cương nghị nên ông được các đời vua nhà Trần tôn quý như bậc thầy. Các tác phẩm hiện nay của ông đã không còn nhiều, nhưng tác phẩm đã để lại dấu ấn và là kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong các tác phẩm của ông là bài Bạch Đằng giang phú, một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm Bạch Đằng giang phú vừa thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn cao đẹp về việc đề cao vai trò, vị trí của con người trước lịch sử.
“Bạch Đằng giang phú” được Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán theo thể phú cổ, vừa có vần lại vừa có phép đối rất uyển chuyển.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ trên cảnh sông nước:
“Khách có kẻ: Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Bằng nghệ thuật liệt kê các địa danh mà nhân vật “khách” đi qua là Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đã cho chúng ta thấy “khách” là một người đi nhiều nơi nổi tiếng, hiểu biết rộng, mang tráng chí làm bạn với gió trăng, qua nhiều miền sông bể. Ở đây, khách nhắc tới nhiều địa danh quen thuộc, tuy nhiên các địa danh này cách nhau hàng ngàn dặm, không thể đi trong một sớm một chiều. Đây là cách phô diễn ý tưởng có tính chất ước lệ, mang đến cho người đọc cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la góp phần thể hiện niềm thích tự do, phóng khoáng của nhân vật khách.
Tiếp đến, tác giả tiếp tục miêu tả cảnh sông nước, nhưng lần này là của quê hương nước nhà:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
Bạch Đằng giang là con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt, dưới ngòi bút tinh tế đặc sắc của Trương Hán Siêu, đây là con sông rộng và dài, tầng tầng, lớp lớp, cuồn cuộn nhấp nhô trên dòng sông nước. Bên cạnh đó, những con thuyền nối đuôi nhau mở ra một không gian thơ mộng, thướt tha. Mặc dù dòng sông vô cùng đẹp và thơ mộng đó nhưng có những mảng màu buồn bã, ảm đạm, rùng rợn. Những “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu” đã gợi tả ra một khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo, hiu hắt đầy lá lách, lau sợi. Trên dòng sông thơ mộng đã chứa những cây giáo gãy,biết bao xương cốt của quân thù địch. Điều này đã thể hiện sông Bạch Đằng là một con sông mang đậm tính chất lịch sử của thời kháng chiến chống quân Mông – Nguyên của dân tộc ta.
Khi đứng trước một dòng sông đầy chiến tích, tác giả đã thể hiện cảm xúc xúc động qua những cặp câu song quan tinh tế:
“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”.
Hình ảnh “đứng lặng giờ lâu” cho thấy được những suy tư, trầm lặng, xúc động. Bên cạnh đó, nhân vật khách cảm thấy đau buồn và tiếc nuối trước những cảnh vật đổi thay, những anh hùng ngã xuống. Đây là một đạo lý tốt đẹp uống nước nhớ nguồn mà tác giả đề cập tới.
Để tiếp tục miêu tả những trận chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng, tác giả đã đưa thêm hình ảnh nhân vật bô lão vào bài phú. Kết hợp giữa lời tự sự và ngôn ngữ sinh động đã làm toát lên âm điệu của bản hùng ca về Bạch Đằng giang:
“Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu?
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Hình ảnh các bô lão là những bậc cao niên có thể là chứng nhân lịch sử hoặc hình ảnh hư cấu, sự phân thân của tác giả để kể với nhân vật khách vê những chiến công trên sông Bạch Đằng. Khi khách đến với sông Bạch Đằng, các bô lão chào hỏi với thái độ nhiệt tình, trân trọng, hiếu khách bằng những từ ngữ “vái”, “thưa”. Họ tự hào kể về các trận chiến oai hùng năm xưa, những chiến công hào hùng, vang dội, mãnh liệt của các thế hệ đi trước “hưng nhị thánh bắt Ô Mã”, “Ngô chúa phá Hoằng Thao”. Lời thơ mang âm hưởng hào hùng, thể hiện sự tự hào dân tộc vang vọng trong đó.
Trận thủy chiến diễn ra ác liệt và đầy mạo hiểm:
“Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao, Nghìn xưa ca ngợi”.
Trận chiến trên sông Bạch Đằng với lực lượng đông đảo, hùng hậu, “thuyền tàu muôn đội”, “hùng hổ sáu quân”, “giáo gươm sáng chói”, quân địch vừa đông lại có những vũ khí lợi hại, đây là sự chênh lệch rất lớn về lực lượng và đối đầu về ý chí. . Trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt. Hai bên cân sức cân tài, diễn biến trong thế giằng co, không phân thắng bại, khiến trời đất phải rung chuyển. Lời kể khiến ta có cảm giác hồi hộp từ diễn biến đến kết quả. Và rồi bằng sự đoàn kết và trời thương ta, nhân dân ta đã chiến thắng vang dội và quân địch thua nhục nhã ê chề. Để nhấn mạnh sự thất bại nhục nhã của địch, bô lão đã lấy hai điển tích là trận Xích Bích và nhận Hợp Phì. Nước sông đến nay vẫn chảy hoài nhưng nỗi nhục của quân thù không thể nào gột rửa sạch được, đồng thời ca ngợi những chiến thắng vang dội, tầm vóc to lớn của chiến thắng trên sông Bạch Đằng.
Sau khi miêu tả và ca ngợi những cuộc chiến của quân dân ta dành chiến thắng trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách và các bô lão đã suy ngẫm về những thắng bại đó:
“Tái tạo công lao, Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an!”.
Sự hưng vong của đất nước đều phụ thuộc vào hai yếu tố quan trọng nhất là đất hiểm và nhân tài. “Bạch Đằng” là đất hiểm trở, “Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi,,” là những vị anh hùng nhân tài. Nếu như không kết hợp cả hai yếu tố đó thì đất nước ta không tồn tại tới ngày hôm nay.
Khi các suy ngẫm về cuộc chiến kết thúc, các bô lão và khách lại tiếp tục suy tư về hưng vong của đất nước:
“Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Vẫn là con sông hùng vĩ, mênh mông, rộng lớn, hiểm trở đó, các bô lão đã bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương, dòng sông lịch sử. Tất cả dòng sông đều dồn về biển cả, người bất nghĩa đều tiêu vong, anh hùng mãi mãi lưu danh, đó là quy luật từ xưa đến nay. Nhân vật khách vừa ca ngợi dòng sông lịch sử, vừa ca ngợi hai vị thánh quân Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, chính nhờ những yếu tố như vậy đã giúp đất nước ta trở nên bình an, giành những chiến thắng vang dội vẻ vang.
Bằng những lời văn biền ngẫu và ngôn từ trang trọng, hào sảng, lắng đọng, kết cấu tác phẩm đơn giản, bố cục chặt chẽ đã làm nổi bật tác phẩm. Phú sông Bạch Đằng được coi là đỉnh cao của nghệ thuật phú trong văn học trung Đại Việt Nam. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước những chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng. Đồng thời, tác phẩm ca ngợi truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, những anh hùng bất khuất kiên cường dũng cảm của dân tộc ta. Từ đó, giúp ta hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân văn cao đẹp, đề cao giá trị con người.
3. Phân tích Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu:
Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật non sông gấm vóc quê hương vốn không phải là một đề tài mới mẻ. Trong các trang thơ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ thể hiện rất thành công đề tài này. Nhưng ở trong mỗi tác phẩm thơ văn thì các nhà văn, nhà thơ lại thể hiện với những sắc thái hoàn toàn mới mẻ, với những đối tượng miêu tả, sắc thái miêu tả hoàn toàn khác nhau, mang đặc trưng riêng của phong cách mỗi nhà thơ. Cũng viết về cảnh sắc của thiên nhiên đất trời, nhà thơ Trương Hán Siêu đã thể hiện tình yêu cũng như niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước, mà đối tượng ở đây là con sông lịch sử, con sông hào hùng của dân tộc Việt Nam, con sông Bạch Đằng. Tình yêu ấy, niềm tự hào ấy của nhà thơ được thể hiện rõ nét qua bài phú “Phú sông Bạch Đằng”.
Khi khi đã giành được độc lập, vua quan thời hậu Trần chỉ biết đắm mình trong cuộc sống hưởng lạc, ăn chơi trác táng mà không hề đoái hoài đến việc dân, việc nước. Trước thực trạng ấy, Trương Hán Siêu đã vô cùng đau lòng, ông đã
“Khách có kẻ:
Giương buồm giăng gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”
Trương Hán Siêu đã thể hiện sự cảm khái trước con sông lịch sử, khi chiến đấu nó là con sông anh hùng, nhưng vào thời bình lại là một con sông hài hòa với dòng chảy lặng lẽ, vẻ đẹp ấy tuy bình dị nhưng lại vô cùng thu hút đối với một người khách thưởng ngoạn như nhà thơ. Trong không gian rộng của dòng sông ấy, tác giả nhớ đến những người xưa “Giương buồm giăng gió mải miết”, đó là những cuộc phiêu lưu đầy kỳ thú khi bơi thuyền chơi trăng, hay những người “Lướt bể chơi trăng mải miết”, đó là cuộc sống đầy tự tại của những con người thích phiêu du, cuộc sống “sớm gõ thuyền”, “chiều lần thăm”, những địa danh như Nguyên, Tương, Vũ Huyệt đều là những địa danh của Trung Quốc.
“Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người đi đâu chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng khí bốn phương còn tha thiết”
Tác giả đã gợi lại những con người mang trí phiêu lưu, thưởng ngoạn, và những địa danh nêu ra trong bài phú cũng là địa danh quen thuộc. Tuy ở những nơi quen thuộc đó nhưng người khách du ngoạn vẫn có thể tìm được những thú vui cũng như đối tượng để khám phá, cái chí tung hoành vẫn tha thiết “Mà tráng khí bốn phương còn tha thiết”. Không chỉ nêu và ca ngợi những con người có chí thưởng ngoạn, ngao du mà Trương Hán Siêu còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước cũng như niềm tự hào về truyền thống hào hùng của dân tộc bằng những vần thơ tha thiết nhất:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”
Nếu như ở trên nhà thơ viết về những địa danh của Trung Quốc thông qua những chuyến kì thú của các vị khách xưa, thì hình ảnh của con sông Bạch Đằng lại được gợi ra trong niềm tự hào, tình yêu tha thiết nhất. Nhà thơ đã mô tả lại quá trình mà mình có thể đến được con sông Bạch Đằng này, đó là qua cửa của Đại Than, và ngược dòng bến Đông Triều. Đông Triều và Đại Than đều là tên của những địa danh thuộc tỉnh Quảng Ninh, nó là con đường dẫn nhà thơ đến với sông Bạch Đằng lịch sử “Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều”, khi đến dòng Bạch Đằng dòng nước chảy xuôi và êm đềm hơn rất nhiều, xa xa đó là những con sóng kình, những con sóng này nối đuôi nhau dài đến “muôn dặm”, và trong sự cảm nhận của nhà thơ thì những con sóng này còn mang những hình dạng rất độc đáo “Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Và cảnh sắc trên dòng sông cũng thuộc hàng kỳ vĩ “Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”.
“Bờ lau san sát, bến lác đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Khung cảnh dữ dội, oai hùng trên sông Bạch Đằng ngày ấy, bây giờ khi độc lập đã giành được thì con sông dường như trở nên lặng lẽ hơn, thậm chí còn có chút gì đó đìu hiu, hoang vắng, khung cảnh ven bờ thì um tùm bởi cỏ lau “Bờ lau san sát, bến lác đìu hiu”, nhà thơ bỗng man mát buồn vì khung cảnh đìu hiu, hoang sơ đó “Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu”, tâm trạng buồn xen lẫn chút nuối tiếc khiến cho nhà thơ đứng lặng người ra hồi lâu. Sự yên lặng đó như để tưởng nhớ về, hoài niệm về quá khứ đã xa, đó là cái quá khứ hào hùng của nhân dân Đại Việt khi chống quân Nguyên – Mông: “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”, đó chính là sự hồi cố về sự oai hùng, mạnh mẽ của nhà thơ trước chặng đường lịch sử dữ dội nhưng đầy sức mạnh oai nghiêm đó. Thời gian vô tình trôi mà làm phai mờ đi những dấu vết của lịch sử, dấu vết của một thời đại anh hùng trên dòng sông Bạch Đằng huyền thoại đó: “Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.
“Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói
Trận đánh được thua chửa phân
Chiến lũy Bắc Nam chống đối”
Vẫn trong dòng hồi tưởng về quá khứ đấu tranh oai hùng của dân tộc, nhà thơ Trương Hán Siêu đã mô tả lại một cách chân thực không khí dữ dội khi chiến đấu, đó là sự hùng hậu của các thuyền bè chiến đấu “thuyền bè muôn đội”, và cùng với đó là những lá cờ tình kỳ tung bay phấp phới trên đỉnh mỗi con thuyền, mỗi chiếc bè”tinh kỳ phấp phới”. Đó là đội quân tinh nhuệ của ta với tinh thần chiến đấu hừng hực cùng ánh sáng chói của những đao gươm “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Và cuộc chiến đấu diễn ra trong khung cảnh ác liệt nhất khi hai bên giao chiến cân tài ngang sức, chưa phân thắng bại cuối cùng “Trận đánh được thua chửa phân”.
4. Một số đề văn về bài thơ Phú sông Bạch Đằng:
Đề 1: Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng
Đề 2: Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu
Đề 3: Dàn ý Phân tích giá trị của nghệ thuật thể phú qua bài thơ Phú sông Bạch Đằng
Đề 4: Phân tích cảm hứng yêu nước trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng
Đề 5: Trận Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão trong bài Phú sông Bạch Đằng