Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến

Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến
Bạn đang xem: Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích thành ngữ thi trung hữu hoạ trong Tây Tiến:

Mở bài:

+ Vị trí của bài thơ trong nền thơ ca Việt Nam.

+ Tác giả Quang Dũng và hoàn cảnh sáng tác.

+ Ý nghĩa của bài thơ.

+ Ý nghĩa của thành ngữ: Thơ có chứa đựng hội họa.

+ Quan hệ giữa thơ và họa: Cả hai đều là nghệ thuật, cùng sử dụng hình ảnh để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật.

Khám phá cách mà Quang Dũng đã sử dụng thành ngữ này để tạo nên những bức tranh sống động trong bài thơ Tây Tiến.

Thân bài

a. Vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ:

+ Hình ảnh sông Mã, rừng già, dốc cao, thác gầm… tạo nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa khắc nghiệt.

+ Sử dụng các từ láy, điệp từ (dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, chiều chiều oai linh thác gầm thét) tạo nên âm hưởng mạnh mẽ, gợi tả.

Mặc dù là thơ ca, nhưng Quang Dũng vẫn gợi lên những màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc (màu xanh của rừng, màu trắng của mây, màu xám của đá…).

Qua những câu thơ, ta hình dung ra một không gian rộng lớn, bao la, với những đường nét rõ ràng, sắc nét.

b. Khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

Người lính không chỉ là một cá thể đơn lẻ mà còn là một phần của thiên nhiên Tây Bắc.

Qua những câu thơ, ta cảm nhận được tâm hồn lãng mạn, hào hoa của người lính.

Hình ảnh người lính luôn gắn liền với những động từ mạnh, thể hiện sức sống mãnh liệt.

c. Các biện pháp nghệ thuật:

  • So sánh: So sánh người lính với thiên nhiên, tạo nên những hình ảnh độc đáo, bất ngờ.

  • Nhân hóa: Nhân hóa thiên nhiên, làm cho cảnh vật trở nên sinh động, gần gũi với con người.

  • Ẩn dụ: Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để diễn tả những ý nghĩa sâu xa.

Kết bài:

  • Khẳng định lại giá trị của thành ngữ “thi trung hữu họa” trong bài thơ Tây Tiến.
  • Nhận xét về tài năng của Quang Dũng: Quang Dũng đã sử dụng thành công thành ngữ này để tạo nên những bức tranh tuyệt đẹp, sống động.
  • Ý nghĩa của việc sử dụng thành ngữ này: Giúp người đọc hình dung rõ hơn về thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính Tây Tiến.

2. Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến hay nhất:

Trong nền văn học Việt Nam, Quang Dũng là tác giả được nhắc nhiều với chữ “tôi” trữ tình và lãng mạn, bởi sự cảm thụ vô cùng tinh tế, sâu sắc trước vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người. Bài thơ “Tây Tiến” là thi phẩm thể hiện rõ ràng điều đó. Một trong những đặc sắc của bài thơ là chất hội hoạ được thể hiện bằng các hình ảnh cùng lớp ngôn từ có khả năng kiến tạo ra nhiều đường nét và màu sắc cho thiên nhiên cũng như con người, trở thành một tác phẩm “thi trung hữu hoạ”.

“Thi trung hữu hoạ” là chất hội hoạ thể hiện trong tác phẩm thi ca và “trong thơ có nhạc”. Văn học vốn là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính cá nhân của người sáng tác, rồi tiếp cận với công chúng thông qua con đường đọc hiểu và tưởng tượng; nhưng hội hoạ là lĩnh vực nghệ thuật sử dụng màu sắc, đường nét. Nếu văn học sử dụng chất liệu ngôn từ trong xây dựng hình tượng nghệ thuật thì hội hoạ dùng các mảng màu và từng nét vẽ nhằm kiến tạo ra những tác phẩm tranh. Ây là những loại hình nghệ thuật riêng rẽ song giữa văn học và hội hoạ lại có sự giao thoa, hoà hợp khi văn học có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống khách quan thông qua cách sử dụng một số hình ảnh có đường nét, hình khối bằng chất liệu ngôn từ, làm cho những hình ảnh ấy trở lên chân thật, gần gũi trong tâm thức của khán giả.  

Trong bài thơ “Tây Tiến”, yếu tố “thi trung hữu hoạ” được thể hiện đậm nét thông qua mảng tranh thiên nhiên cùng tấm chân dung của người lính Tây Tiến. Qua từng nét vẽ được tạo ra bởi lớp ngôn từ phong phú và đa dạng, thiên nhiên núi rừng miền Tây đã hiện lên với vẻ đẹp vừa hoang sơ, hùng vĩ lại vô cùng thơ mộng, trữ tình.  

 “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Sương con đường đó đã được tái hiện thông qua những nét vẽ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” nói lên vẻ cheo leo và hiểm trở. Không gian ấy đã được mở rộng ra chiều cao của các dốc đá theo chiều sâu “Ngàn thước lên cao, ngàn thước về”. Lớp ngôn từ giàu tính tạo hình đã khắc hoạ một bức tranh thiên nhiên mang đậm chất hội hoạ với vẻ đẹp kỳ vĩ qua từng con đường cheo leo, các dốc đá dựng đứng thăm thẳm và nhiều ngọn đồi ẩn hiện sau màn sương của mây núi. Chất hoạ của bài thơ cũng được thể hiện bằng hình ảnh thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên tạo vật: 

  “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những nét vẽ của “chiều sương”, “hồn lau”, “người độc mộc”, “hoa đong đưa”, đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp bình dị, dân dã, thơ mộng và trữ tình. Những bông hoa lau lay động chập chờn trên “nẻo bến bờ” cùng với cánh hoa “đong đưa” theo làn nước lũ làm cảnh vật trở nên thơ mộng, mang một vẻ đẹp hoang sơ và gợi cảm. Trên nền ấy, hình ảnh “dáng người trên độc mộc” xuất hiện với một nét vẽ mềm mại, tạo thành một nét vẽ mạnh mẽ và khoẻ khoắn. Như vậy, bức tranh thiên nhiên với các đường nét thơ mộng đã tạo ra vẻ đẹp trữ tình và lãng mạn cho thi phẩm.  

 Chất “hoạ” của bài thơ cũng được thể hiện thông qua bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hình ảnh người lính Tây Tiến đã được tái hiện thành công qua từng nét vẽ mang màu sắc lãng mạn cùng cảm xúc bi tráng. Các chi tiết khá thật như “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm” hay “mắt trừng” đã gợi lên một bức chân dung vừa trừu tượng vừa thực tế và có nhiều nét riêng của người lính với vẻ ngang tàn. Tuy nhiên, ẩn sau các nét vẽ tưởng như vô cùng mạnh mẽ ấy là tâm hồn đầy cảm xúc và hết sức lãng mạn. Dù phải đối mặt với bao nguy hiểm song họ luôn “gửi mộng qua biên giới”, mỗi đêm nằm mơ lại nghĩ đến vẻ đẹp của người thiếu nữ Hà thành kiều diễm. Tuy nhiên, nổi bật hơn hết là vẻ đẹp bi tráng thông qua thái độ của con người khi đối mặt với sự chết:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Không có nhiều giây phút mơ mộng với hình ảnh người thiếu nữ nhưng trên chiến trường, người lính đã hy sinh hết mình để hoàn thành nhiệm vụ. Lối nói trầm, nói bổng “áo bào thay chiếu, anh về đất” đã diễn tả cảnh chết nơi chiến trường, thể hiện rõ ràng tác giả không hề lẩn tránh chữ bi, nhưng qua các nét vẽ mang âm hưởng sử thi: “Sông Mã vang lên khúc độc hành”, Quang Dũng cũng đã tái hiện thành công tấm chân dung người lính với vẻ đẹp bi tráng.

Qua những điều đã nói, chúng ta có thể thấy được bài thơ “Tây Tiến” hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “thi trung hữu hoạ”. Với tài năng của mình, tác giả đã tạo ra một thi phẩm đậm chất hội hoạ thông qua nhiều hình thức nghệ thuật như bút pháp diễn tả từ trừu tượng đến hiện thực, thủ pháp kết hợp tương phản, . .. góp phần kiến tạo thành công bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây và vẻ đẹp của bao người lính hy sinh tuổi xuân, xương máu cho độc lập, tự do của tổ quốc.

3. Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến ý nghĩa nhất: 

Quang Dũng là gương mặt nổi bật tác giả tác của thơ ca kháng chiến chống Pháp. “Tây Tiến” là thi phẩm hay, có thể nói là một kiệt tác của Quang Dũng, ra đời ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được ra đời từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ khắc khoải về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể phai mờ của bản thân tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn bó với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức tất cả ấn tượng, kí ức để nhà thơ khắc hoạ cảnh sắc thiên nhiên cùng hình tượng người lính giàu chất hội hoạ (Thi trung hữu hoạ) .

Thơ – nhạc và hoạ cùng là những loại hình nghệ thuật, nhưng có sự khác, đặc biệt là về chất liệu tạo dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc lấy giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như những tác phẩm văn chương đều sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng biệt đó là chất liệu phi vật thể, vì thế sự tác động cảm nhận không trực tiếp như những loại hình nghệ thuật khác nhưng sức gợi mở của nó thì rất phong phú và mãnh liệt. Nó tác động đến liên tưởng của con người và khơi lên sự cảm nhận rõ ràng về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.

Thơ là một hình thức sáng tạo văn học thiên về biểu đạt cảm xúc với hệ thống ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm. Bút pháp “thi trung hữu hoạ” nghĩa là trong thơ có hoạ (có tranh và có cảnh) . Tức là đề cập đến đặc điểm của thơ tình là giàu hình ảnh và giàu tính là chất tạo hình, đọc thơ có thể nhìn được những khung cảnh hiện rõ ở trước mắt.

Nói “Thi trung hữu hoạ” là văn học phản ánh hiện thực cuộc sống thì thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống thông qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp những hình ảnh, biểu tượng (hình ảnh có ngụ ý) , hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm) phong phú bằng thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự biểu lộ những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn dĩ mơ hồ nên cần được xây dựng trên các điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hoá. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì nó mang màu sắc của cảm xúc mạnh mẽ cùng trí tưởng tượng dồi dào.

Viết bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng đặc biệt chú ý trong việc tạo thêm đường khối và màu sắc của hình ảnh cùng bố cục cho tác phẩm. Với trí tưởng tượng đa dạng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả tổng quát và cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản, bài thơ Tây Tiến đã vẽ lên trước mắt người xem hình ảnh:

 “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi “.

Tính hoạ được tạo ra bởi nỗi nhớ mơ hồ và nỗi nhớ chênh phô giữa hai bờ thực ảo. Tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, gọi tên con sông vùng Tây Bắc: “sông Mã xa rồi” một cách trìu mến và đầy cảm tình như thể gọi tên từng người thân yêu trong cuộc đời mình. Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gǜi, thân thuộc với tác giả và khi vắng thị Tây Bắc thì Tây Tiến như một “mảnh tâm hồn” của tác giả.

“Nhớ chơi vơi” gợi lên chiều sâu về không gian, gợi ra sự cách biệt về thời gian. Tất cả đã lùi về quá khứ. Quang Dũng cất lên tiếng gọi, nghe như thể sự níu giữ ký ức về quá khứ. Và trong xúc cảm ấy, bao kỷ niệm, bao hình ảnh đã hiện về.

Tính hoạ được gợi lên như bức tranh sống động về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở hùng vĩ nhưng rất trữ tình thơ mộng. Trước hết là các địa danh và thời tiết khắc nghiệt xứ sở miền Tây được khắc hoạ bằng bút pháp nhẹ nhàng, thanh thoát:

 “Sài khao sương lập đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

“Sài Khao” và “Mường Lát” là hai địa danh tiếp theo được đề cập đến. Những cái tên như thế có sức tạo hình, nó gợi những nơi chốn hoang sơ, thưa người, vắng vẻ. Những cái tên như là địa chỉ ghi đậm dấu chân người lính. Và cũng tại nơi hoang vu ấy, ký ức đập về màn sương về tuyết trắng phủ đầy lối đi, che khuất những cánh quân viễn chinh. Sương bồng bệnh, giá buốt làm trơn trượt các con đường và làm tê lạnh da người. “Đêm hơi” là đêm đầy hơi sương, là đêm lạnh lẽo, và gợi sự khốc liệt của khí hậu. Cũng từ “hoa về”, tiếp tục đem đến những cách hiểu. Có thể hiểu hoa theo nghĩa động là những cánh hoa rừng nở rộ, mùi hương hoà quyện trong đêm hơi. Nhưng cǜng có thể hiểu, khi chiến sĩ hành quân đêm, hình ảnh bó đuốc họ cầm, tựa như những đoá hoa lửa, xoá đi giá rét và đêm tối.

Tính hoạ được tái hiện sinh động bằng hình ảnh của con dốc Tây Tiến:

 “Dốc lên cao đốc thăm thẳm

 Heo hút cồn mây súng nghe trời

 Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “.

Đất nước mình với đặc điểm địa hình 3/4 là núi đồi, song trong từng lời thơ đầy chất tạo hình của Quang Dũng, tưởng chừng như bao ngọn đồi, đỉnh núi hùng vĩ đã “đổ bộ” cả lên vùng miền Tây xa xôi và phủ kín trên các cung đường của binh đoàn Tây Tiến. Điệp từ dốc lại gợi sự nối tiếp, chồng chất của các con dốc, dốc thế này thì hết dốc kia đã phủ hiện trước mặt. Hơn thế nữa các từ láy đi cùng lại gợi lên vẻ khốc liệt của từng con dốc, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” tạo cho ta một hình dung về sự hoang sơ, hùng vĩ, cheo leo, chênh vênh, hiểm trở và hun hút ghê người.

Nhưng đặc biệt hơn nữa, với thủ pháp tương phản thì sự cheo leo, hiểm trở của các con dốc nơi đây mới hiện lên đầy đủ: “Ngàn thước lên cao ngàn thước về”. Đó là một sự bẻ ngoặt táo bạo và ngoạn mục. Không phải là dễ dàng đi qua các vùng miền kia, dốc nơi này dựng cao vời vợi, nhô lên, vươn lên thẳng đứng chạm đến mây trời. Nhưng khi lên đỉnh dốc ấy nếu sa chân bước trượt có thể ngã ngay dưới chân dốc sâu thăm thẳm.

Nếu câu thơ “dốc lên đỉnh dốc thăm thẳm” với 5 thanh trắc trong 1 câu thơ đã tạo ra được những liên tưởng rất lãng mạn, bay bổng và sảng khoái, thì câu thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” cũng thiết lập lại thế cân bình, câu thơ được dệt từ những thanh bằng gỗ ghép lại, can binh, câu thơ được gợi tả sự êm dịu, thư thái của tâm hồn bao người lính trẻ trung, giữa gian sa mạc luôn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm hơn, âm điệu du dương trong phút nghỉ ngơi ngắn ngủi của người lính. Trong màn mưa rừng, tất cả nhạt nhoà, mọi mệt nhọc cũng tan đi, chỉ để lại cảnh nên thơ và lãng mạn.

Tính hoạ được gợi lên trong tấm chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất lãng mạn. Trên cái nền cheo leo, hiểm trở và khốc liệt của núi rừng cùng nét thơ mộng, trữ tình của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng.

Quang Dũng còn được nhắc nhiều với tư cách là một nhà thơ: nhận xét, ông là một nghệ sĩ đa tài, biết vẽ tranh và viết nhạc. Cho nên, chính tài năng nhiều mặt ấy đã bổ trợ lẫn nhau để đế Quang Dũng có thể đưa ra những nét phác hoạ đầy ấn tượng về thiên nhiên miền Tây. Có nhà phê bình văn học đã thẳng thắn nhận xét rằng, mỗi vần thơ viết trên dốc Tây Tiến là những bài thơ tuyệt bút, chính vì tính hội hoạ đậm đặc đã tô tối thêm điểm nhấn cho toàn bộ tập thơ và tạo ấn tượng mãi bên trong lòng người xem nhiều thế hệ.

4. Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến ấn tượng nhất:

Trong nền văn học Việt Nam, Quang Dũng là nhà thơ được nhắc nhiều với chữ “tôi” trữ tình và lãng mạn, bởi sự cảm nhận vô cùng tinh tế, sâu sắc trước vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người. Bài thơ “Tây Tiến” là thi phẩm thể hiện rõ ràng hồn thơ đó. Một trong những đặc sắc của bài thơ là chất hội hoạ được thể hiện bằng các hình ảnh cùng lớp ngôn từ có khả năng kiến tạo ra nhiều đường nét và màu sắc cho thiên nhiên cũng như con người, trở thành một tác phẩm “thi trung hữu hoạ”.

“Thi trung hữu hoạ” là chất hội hoạ thể hiện trong tác phẩm thi ca: “trong thơ có nhạc”. Văn học vốn là loại hình nghệ thuật phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính cá nhân của người nghệ sĩ, và tiếp cận với độc giả thông qua con đường đọc hiểu và cảm nhận; thì hội hoạ là lĩnh vực nghệ thuật sử dụng màu sắc, đường nét. Nếu văn học sử dụng chất liệu ngôn từ trong xây dựng hình tượng nghệ thuật thì hội hoạ dùng các gam màu và từng nét vẽ nhằm kiến tạo ra những tác phẩm tranh. Với là những loại hình nghệ thuật riêng rẽ song giữa văn học và hội hoạ lại có sự đan xen, kết hợp bởi văn học có khả năng phản ánh hiện thực đời sống sinh động thông qua việc sử dụng nhiều hình ảnh có đường nét, hình khối bằng chất liệu ngôn từ, làm cho các hình ảnh ấy trở lên chân thật, gần gũi trong tiềm thức của độc giả.

Trong bài thơ “Tây Tiến”, yếu tố “thi trung hữu hoạ” được thể hiện đậm nét thông qua mảng tranh thiên nhiên và vẽ chân dung của người lính Tây Tiến. Qua từng nét vẽ được tạo ra bởi lớp ngôn từ phong phú và đa dạng, thiên nhiên núi rừng miền Tây đã hiện lên với vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hoang sơ lại vô cùng thơ mộng, trữ tình.

 “Dốc lên cao dốc xuống

 Heo hút cồn mây, súng xịt trời

 Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “

Các con đường đó đã được tái hiện thông qua nhiều nét vẽ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” nói lên những gian nan, trắc trở. Không gian hành quân cũng được mở rộng ra chiều cao của các dốc núi và chiều sâu “Ngàn thước lên cao, ngàn thước về”. Lớp ngôn từ giàu tính tạo hình đã khắc hoạ một bức tranh thiên nhiên mang đậm chất hội hoạ với vẻ đẹp kỳ vĩ qua từng con đường ngoằn ngoèo, các dốc núi cao thăm thẳm và nhiều đỉnh đèo ẩn sau màn sương của mây trời. Chất hoạ của bài thơ cũng được thể hiện bằng sự thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên :

 “Người lên Châu Mộc chiều sương ấy

 Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

 Có nhớ dáng người trên độc mộc

 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Cọ nét vẽ của “chiều sương”, “hồn lau”, “người độc mộc”, “hoa đong đưa”, đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp bình dị, hiền hoà, thơ mộng và trữ tình. Những bông hoa lau lay động chập chờn trên “nẻo bến bờ” cùng với sắc hoa “đong đưa” theo dòng nước lũ làm cảnh vật trở nên thơ mộng, mang một vẻ đẹp hoang sơ và gợi cảm. Trên phông nền ấy, hình ảnh “dáng người trên độc mộc” xuất hiện như một nét vẽ ngẫu hứng, tạo thành một nét vẽ mạnh mẽ và khoẻ khoắn. Như vậy, bức tranh thiên nhiên với nhiều đường nét thơ mộng đã tạo ra vẻ đẹp trữ tình và lãng mạn cho thi phẩm.

 Chất “hoạ” của tập thơ cũng được thể hiện thông qua bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng:

 “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

 Quân xanh màu lá dữ oai hùm

 Mắt ác gửi mộng sang biên giới

 Đêm nằm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh người lính Tây Tiến đã được tái hiện thành công với nhiều nét vẽ mang cảm hứng lãng mạn cùng cảm xúc bi tráng. Nhiều chi tiết rất thật như “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng” đã gợi lên một bức chân dung vừa trừu tượng vừa cụ thể lại có những nét riêng của người lính với vẻ ngang tàn. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi nét vẽ tưởng như vô cùng mạnh mẽ ấy là tâm hồn đầy tình cảm lại hết sức lãng mạn. Dù phải đối mặt với bao hiểm nguy song họ lại “gửi mộng qua biên giới”, mỗi đêm nằm mơ đều nghĩ đến bóng dáng đẹp của người thiếu nữ Hà thành kiều diễm. Tuy nhiên, nổi bật hơn vẫn là vẻ đẹp bi tráng thông qua thái độ của con người khi đối mặt với sự chết:

 Rải rác biên cương mồ viễn xứ

 Chiến trường đi không quên đời xanh

 Áo bào thay chiếu, anh về đất

 Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trung có những phút giây mơ mộng với hình dáng người thiếu nữ nhưng trên chiến trường, người lính đã hy sinh hết để hoàn thành lí tưởng. Lối nói nhẹ, nói khẽ “áo bào đổi chiếu, anh về đất” đã diễn tả cảnh chết chóc nơi sa trường, thể hiện rõ ràng tác giả không hề lẩn tránh cái bi, chỉ là những nét vẽ mang âm hưởng sử thi: “Sông Mã vang lên khúc độc hành”, Quang Dũng cũng đã tái hiện thành công tấm chân dung người lính với vẻ đẹp bi tráng.

Qua những điều đã nói, chúng ta có thể thấy được bài thơ “Tây Tiến” hoàn toàn xứng đáng với nhận định “thi trung hữu hoạ”. Với tài năng của bản thân, tác giả đã tạo ra một thi phẩm đậm chất hội hoạ thông qua nhiều biện pháp nghệ thuật như bút pháp diễn tả từ trừu tượng đến hiện thực, thủ pháp đối lập tương phản, . .. góp phần kiến tạo thành công bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây và vẻ đẹp của bao người lính hy sinh tuổi xuân, tuổi đời cho độc lập, tự do của dân tộc.

5. Ý nghĩa của thành ngữ Thi trung hữu họa trong bài thơ Tây Tiến:

Chính việc nghiên cứu chất vẽ trong bài “Tây Tiến” cho ta thấy thơ Quang Dũng rất có chất “thi trung hữu hoạ”. Có được điều ấy là vì bản thân tác giả cũng là một hoạ sĩ. Con người ông rất xứng đáng với hai chữ: đa tài. Nó tạo nên trong thơ Quang Dung vẻ đẹp hào hoa, bay bổng và đầy chất trữ tình mà không nhà thơ nào có được. Cũng qua tác phẩm, ta hiểu hơn về thủ pháp ‘ thi trung hữu hoạ ’ trong thơ ca. Bằng thủ pháp này, nhiều nhà thơ đã vẽ lên hình ảnh và ngôn từ nhằm tăng thêm sức hút, sức gợi mở cho thơ. Hình ảnh ấy, gởi gắm tâm tình của mình thông qua đường nét và màu sắc của tấm tranh.

THAM KHẢO THÊM: