1. Phân tích đề bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc:
- Yêu cầu: phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình độc đáo thể hiện trong bài thơ Việt Bắc.
- Phạm vi tư liệu và dẫn chứng: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu có trong bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu.
- Phương pháp lập luận chính của bài : Phân tích.
- Luận điểm thứ nhất: Bức tranh thiên nhiên mùa đông ấm áp, lắng dịu ở
- Việt Bắc.
- Luận điểm thứ hai: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ, chói chang trên Việt Bắc.
- Luận điểm thứ ba: Bức tranh thiên nhiên mùa hạ rộn ràng, náo nức ở Việt Bắc.
- Luận điểm thứ tư: Bức tranh thiên nhiên mùa thu êm ái, ngọt ngào trên núi rừng Việt Bắc.
LÀM RÕ CÁC LUẬN ĐIỂM:
* Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông
– “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng bút pháp chấm phá: nổi bật trên nền xanh rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn đuốc xua đi cái lạnh của của núi rừng mùa đông) và màu vàng của những đốm nắng.
– “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: hình ảnh tia nắng ánh lên từ con dao gài thắt lưng gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, cuộc sống.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân
– “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không gian núi rừng, thiên nhiên tràn đầy nhựa sống khi xuân về.
– Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút, tỉ mỉ với từng thành quả lao động của mình.
* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ
– “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột ngột chuyển sang sắc vàng qua động từ “đổ”
+ Có thể liên tưởng màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống
+ Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.
– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” – cách gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.
* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu
– “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.
– Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung, nặng ân tình.
2. Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mở bài:
Giới thiệu nhà văn Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc và bài thơ, bức tranh tứ bình. (Tố Hữu là nhà thơ lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác nổi tiếng của ông là bài thơ Việt Bắc, nổi bật hơn là bức tranh tứ bình trong bài thơ)
Thân bài:
Hai câu thơ đầu của người đã khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc sẽ luôn được Người ghi nhớ.
Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho rừng xanh ánh nắng vàng, làm cho hình ảnh mùa đông của Việt Bắc thêm hài hòa, sặc sỡ.
Mùa xuân: “mơ nở trắng rừng” Mùa xuân Việt Bắc, trăng trắng tinh trong rừng mơ, giữa khung cảnh nên thơ này hiện lên hình ảnh một con người chăm chỉ, cẩn thận và khéo léo. trên mỗi bờ sông. mũ đan
Mùa hè:“ve kêu rừng phách đổ vàng” âm thanh quen thuộc của mùa hè giữa rừng vàng hổ phách gợi tiếng cây cỏ hót như bát sắc vàng rơi xuống cây xanh biến vạn vật thành một màu vàng ấm áp.
Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hòa bình” Ánh trăng thu ở Bắc Bộ vô cùng thanh tĩnh và trong sáng tạo cảm giác trong lành, cảnh vật tràn ngập khúc ca thủy chung của con người đầy tình cảm, dịu dàng.
→ Hình ảnh hòa quyện của thiên nhiên và con người tạo nên một hình ảnh Việt Bắc rất đẹp mà người đi sẽ nhớ mãi.
Kết bài: Khẳng định lại giá trị ý nghĩa của đoạn thơ.
3. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hay nhất:
Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến không thể thiếu Tố Hữu, với một giọng thơ đầy khí phách đấu tranh, đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ này có những hình ảnh trữ tình, thơ mộng, uyển chuyển và rực rỡ. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc là một ví dụ điển hình:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa, chứa đựng nỗi nhớ da diết và tấm lòng son sắt thủy chung với tác giả nói riêng và người cán bộ Việt Bắc nói chung:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu thơ là câu hỏi và lời kể về một người đã ra đimuốn biết trái tim mình còn sống ra sao mà bày tỏ nỗi lòng. Điệp ngữ “ta về” mở đầu hai câu thơ này như nói lên nỗi niềm của người đã khuất. Cái hay của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng người cũng là hoa trong vườn hoa Việt Bắc? Hình ảnh tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người tách biệt nhau để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bên cạnh bức tranh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ rất chân thực với màu sắc rực rỡ và âm thanh rộn ràng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mùa đông, màu xanh bát ngát của núi rừng lần đầu hiện ra. Tác giả miêu tả mùa đông trước, có lẽ vì khi các nhà cách mạng đến đây cũng là mùa đông của đất nước, đồng thời sau 15 năm các nhà cách mạng cũng tạm biệt Việt Bắc cái nôi của cách mạng Việt Nam.
Giữa nền xanh của rừng sâu nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi khiến cho núi rừng không hoang lạnh mà ấm áp lạ lùng. Những bông hoa chuối ẩn trong màn sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng như ta đã từng gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường lát hoa về trong đêm hơi”. Màu “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa đi cái lạnh cô đơn của mùa đông lạnh giá núi rừng, như chứa đựng, ẩn chứa sinh lực của đất trời. Sự tương phản về màu sắc nhưng lại hài hòa về cách thể hiện khiến mùa đông mang chút ấm áp của mùa hạ vào thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiện mùi hương”
Giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc đã hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Người rừng Việt Bắc luôn thủ sẵn con dao bên thắt lưng để loại bỏ chướng ngại vật và xua đuổi thú dữ. Ở đây, tác giả không miêu tả khuôn mặt hay hành vi, mà miêu tả ánh sáng do lưỡi dao phản chiếu trên thắt lưng. Mặt trời chiếu sáng, làm cho con dao tỏa sáng, tạo nên một hình ảnh khó quên về con người, dường như con người là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa tỏa sáng vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, giữa núi rừng Tây Bắc, xuyên qua không gian với những hình ảnh kì vĩ, để chiếm lĩnh thiên nhiên, chiếm lĩnh trái đất bằng những hình ảnh kỳ vĩ, vĩ đại.
Đông qua rồi xuân tới. Mùa xuân tại Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả một khu rừng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân là thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá căng tràn sức sống, đâm chồi nảy lộc xanh non. Tố Hữu nhìn ngày xuân Việt Bắc bằng một cách diễn đạt rất riêng: “mơ nở trắng rừng”. Trong nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” như một động từ chứ không phải như một tính từ chỉ màu sắc. Ngoài ra, động từ “nở” như một tán trắng át cả màu xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, mát mẻ của hoa mai, làm cho hình ảnh thêm trong sáng, thoát tục.
Giữa nền trắng của hoa mận, nổi bật lên hình ảnh người lao động hiền lành, chăm chỉ: “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuốt” với tiểu từ “từng” chỉ bàn tay khéo léo, cẩn thận, tài hoa của người thợ. Đó cũng là những phẩm chất tốt đẹp của những con người Việt Bắc hào sảng nhưng cũng rất hào hoa.
Mùa hè tiếp đến, tiếng ve rộn rã vang trên khắp núi rừng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Tiếng ve kêu lá vàng. Chỉ riêng tiếng ve kêu như bất chợt chuyển tiết trời từ xuân sang hạ. Câu thơ có nét tương đồng với tư tưởng thơ của Khương Hữu Dụng “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Chỉ trong một câu thơ nhưng đã gợi lên sự vận động của thời gian và cuộc sống. Và trên nền vàng của rừng hổ phách này hiện lên một hình ảnh tuyệt vời làm cho hình ảnh thêm thơ mộng, trữ tình. Đây là hình ảnh:”cô em gái hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không đơn độc mà toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Bài thơ gửi gắm niềm cảm thông, biết ơn người Việt Bắc mà người ra đi sẽ không bao giờ quên những tình cảm chân thành ấy.
Rồi mùa thu Việt Bắc hiện ra với một tháng 9 tuyệt vời làm cho cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng, êm đềm, tràn ngập không khí thanh bình. Giữa đêm trăng thu huyền diệu, những bản tình ca thủy chung của người Việt Bắc lại vang lên làm ấm lòng người:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ở đây không có tin chiến thắng, nhưng có bài hát nhớ thương đồng hương Việt Bắc, bài thơ về núi rừng Tây Bắc, về những cánh rừng đã từng gắn bó suốt mười lăm năm. Bài thơ khép lại hình ảnh thiên nhiên và con người của Việt Bắc, gợi cho người đọc đã ra đi, đang sống và hiện tại những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Nếu câu thơ nói về cảnh thì câu thơ nói về người. Vẻ đẹp của bài thơ nằm ở sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Khung cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình và tràn đầy sức sống, làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc hiền lành, cần cù, nghĩa tình, thủy chung, thủy chung.
Qua những nét phác mộc mạc, bình dị, bức tranh tứ bình của Việt Bắc được vẽ nên với sự đan xen giữa cổ kính và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên, thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ là một nét đặc sắc trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu, mà khi nhắc đến Việt Bắc là người ta liên tưởng ngay đến những tâm hồn nhân hậu, đằm thắm, thuỷ chung.
3. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc.
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà nội. Tố Hữu đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, đối với quê hương cách mạng. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài thơ Việt Bắc. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về Việt Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nêu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc lại không thể tách rời cái đẹp của con người Việt Bắc. Vì vậy, như một cặp song hành đối xứng, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.
Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở Việt Bắc. Trong nền thơ ca và văn học Việt Nam, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ”trông bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm) , đoạn ”buồn trông” trong “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” (Nguyễn Du) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” (Thế Lữ). Thế nhưng, trong Việt Bắc, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.
Bước vào khung cảnh mùa đông Việt Bắc, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.
Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
(Theo chân Bác- Tố Hữu)
Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.
Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của Tố Hữu. Đọc câu thơ lên ta có thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng Việt Bắc. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khương Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.
Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì lần này, con người Việt Bắc hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.
Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình cảm chân thành , tha thiết.
Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người Việt Bắc cũng hiện lên trong dáng vẻ lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả, vẻ đẹp của con người chân chính gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.
Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rỡ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. Mùa thu với ánh trăng huyền ảo, trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)
Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vương vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.
Bức tranh có buổi trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng. Mùa nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài hòa, cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xà là thiên nhiên, mảng gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.