Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm:

Mở bài:

  • Về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết luận, suy tư của người trí thức về đất nước, con người.

  • Giới thiệu bài thơ “Đất nước”: trích trong sử thi “Mặt đường khát vọng”, là một bài thơ mang đậm chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Thân bài:

* Đất nước được cảm nhận về mặt lịch sử, văn hóa, chiều sâu không gian, chiều dài thời đại:

a. Đất nước có từ bao giờ? (giải thích nguồn gốc đất nước) (9 câu đầu):

  • Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên Tổ quốc đã có”, điều này càng thôi thúc mỗi người muốn tìm về cội nguồn Tổ quốc.

  • Đất nước bắt nguồn từ những con diều hâu xa lạ, huy hoàng trong đời sống của người dân Việt Nam từ xa xưa: “Ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu của truyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ đến tục ăn trầu. của người Việt Nam và truyện cổ tích trầu cau, “Mái tóc mẹ vấn”: thói quen để tóc phai màu của người phụ nữ Việt Nam, “Yêu đời cho muối tiêu” thói quen tâm lý, tình yêu truyền thống của người Việt Nam. Quốc gia.

  • Đất nước trưởng thành với quá trình lao động sản xuất “kèo, cột để tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống ngoại xâm.

  • Nhận xét: Tác giả đã có cái nhìn mới về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

Đôi nét về đất nước (28 câu thơ tiếp theo):

+ Tách biệt hai yếu tố “đất” và “nước” để suy nghĩ sâu sắc.

+ Đất nước là không gian riêng thân thuộc với không gian sống của mỗi người: “nơi em đi học”, “nơi em tắm”; Gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi… thầm thương”.

+ Đất nước là không gian bao la, trù phú, là không gian sinh tồn của cộng đồng bao đời nay: “Đất là nơi phượng… dân ta tụ về”.

+ Đất nước xưa kia là nơi linh thiêng, gắn liền với những truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về… trong bọc trứng”.

+ Trong hiện tại: đất nước ở trong tim mỗi người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi mỗi người có sự gắn kết với nhau thì đất nước sẽ nồng nàn, hài hòa và vĩ đại. Đó là mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung.

+ Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “đưa đất nước đi xa” “đến những ngày mơ ước”, đất nước trường tồn, bền vững.

  • Suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước: “Phải biết gắn bó và sẻ chia”, cống hiến, sinh thành góp phần xây dựng đất nước.

  • Nhận xét: Qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc vừa phải, hào hùng trường tồn với muôn thế hệ sau.

Tư tưởng cốt lõi, tình cảm về đất nước: đất nước của nhân dân:

  • Tính chất địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của quá trình sáng tạo mà được hình thành từ bản chất và số phận của mỗi con người, một bộ phận hồn phách của con người:

+ Nhờ tình yêu thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh dũng trong quá trình dựng nước và giữ nước nên có ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.

+ Nhờ có truyền thống hiếu học nên có “núi bút không học”.

+ Họ là những người con, người con gái giản dị nhưng luôn yêu nước.

+ Tác giả đề cao những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân đối với lịch sử dân tộc.

  • Nhân dân sáng tạo và gìn giữ những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt gạo”, “truyền lửa”, “truyền tiếng nói”, “mang theo tên xã tên làng”, truyền tiếng nói”, “mang theo tên xã, tên làng”,… qua đó tạo dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

  • Tư tưởng, cảm hứng cốt lõi bao trùm toàn bộ đoạn trích: “Đất nước này là đất nước của nhân dân, đất nước của những câu ca dao thần thoại”, đất nước đó được thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết ơn, biết nỗ lực và biết chiến đấu. cho đất nước.

Bình luận:

+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới về đất nước trên nhiều phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lý dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.

+ Về nghệ thuật: vận dụng đa dạng, sáng tạo chất liệu văn học dân gian, ngôn ngữ cổ tích phản tư, triết lý sâu sắc.

Kết bài:

  • Nhận xét giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh trí tưởng tượng về “nước của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước ở mỗi người.

  • Nêu cảm nhận của bản thân về đoạn trích Đất nước và có liên hệ thực tế về trách nhiệm của thế hệ hôm nay đối với đất nước.

2. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất:

Từ bao đời nay, Đất Nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương Đất Nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như Đất Nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài Đất Nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ “Đất Nước” của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.

Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người đọc trở về thuở sơ khai, khi Đất Nước mới được sinh ra:

“Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó… “

Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm “Đất Nước” đã được nêu lên thật cụ thể. Đất Nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì Đất Nước đã có rồi. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ “ngày xửa ngày xưa”, một khoảng

Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, Đất Nước được hiện lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn. Đất Nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống “cái cột”, “cái kèo”, hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của Đất Nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.

Đất Nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.

Bằng những lời thơ bình dị như thế, Đất Nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm,”

Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất Nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương Đất Nước.

Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất Nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn rằng Đất Nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.

Hay Đất Nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của Đất Nước. Không chỉ có vậy, Đất Nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một Đất Nước hòa bình, tươi đẹp.

Và hơn thế nữa, Đất Nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường tồn vững vàng:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời… “

Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn Đất Nước hòa bình và luôn thật tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết, dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và gắn bó cùng Đất Nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước muôn đời.

Đi sâu vào từng ngõ ngách trên Đất Nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình Đất Nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng Đất Nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất Nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời còn nhắc mãi,… Đất Nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung kiên, một đời vì Đất Nước, nguyện hi sinh tất cả để Đất Nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của Đất Nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.

Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống, mà không ai biết tên họ, không ai còn nhớ. Để làm ra Đất Nước những vị anh hùng dân tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau.

3. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn:

Đề tài về đất nước từ xưa đến nay luôn là nguồn cảm hứng của văn chương, thơ cơ Việt Nam. Cũng giống như bao bậc tiền bối đi trước bgaf thơ Nguyễn Khoa Điềm, một gương mặt tiêu biểu của văn học kháng chiến chống đế quốc Mĩ đã có những cái nhìn rất mới về đất nước. Quan điểm ấy được ông thể hiện đầy đủ nhất qua bài thơ “Đất Nước” trong sử thi Mặt đường khát vọng.

Đất nước là một khái niệm khác nhau đối với mỗi người. Với Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm nhận, phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng tầng ý niệm về đất nước được ông mở rộng dần. Anh không định nghĩa bằng những khái niệm quá mơ hồ, những đối tượng xuất phát từ những điều rất cụ thể trong cuộc sống chính:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc

Qua quan niệm của tác giả, Đất Nước hiện lên thật bình dị, Đất Nước bước ra từ truyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng cây đánh giặc Ân. Đất nước ta có từ ngày ấy, nằm trong lòng mỗi người con từ thuở ấu thơ.

Không những vật của đất nước mà còn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ vấn sau đầu” để thấy được nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được lưu giữ từ ngàn đời nay của ông cha ta. Dù một năm Bắc Thuộc, phương Bắc ra sức Hán hóa, nhưng không cách nào xóa bỏ được vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất nước còn được hình thành từ lối sống lãng mạn, tình cảm, thủy chung, bắt nguồn từ tình nghĩa vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau cho bằng được mặn nồng”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng nhuần nhuyễn câu ca dao: “Tay nâng đĩa muối tiêu/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” để thấy Đất Nước được hình thành từ những điều tưởng như dị thường nhưng lại kết thúc. sức mạnh thiêng liêng, cao quý.

Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất nước không phải ai xa lạ mà là không gian sống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm không hoa, không soi mà thanh minh đó là nơi đến, nơi tắm gội, nơi hò hẹn, nơi hoài niệm. Đúng vậy, đất nước chính được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để đào sâu quan niệm ấy, ông đã lần về cội nguồn của quá khứ: “Đất nước là nơi đoàn tụ/Đất là nơi chim về/Nước là rồng ở/Lạc Long Quân, Âu Cơ/ Sự ra đời của những con người trong cái bọc”. Từ sự lý giải sâu sắc về hai mặt lịch sử và địa lý, Người dần đi đến hoàn chỉnh khái niệm Đất nước. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước: “Những người đã qua đời/Những người hiện tại/Thương nhau mà sinh con/Cõng phần tiền nhân để lại/Dạy con năm nào chẳng biết ăn đâu/Cũng biết đầu trâu nhớ ngày thấy tổ”. Hai từ “gồng gánh” đã khẳng định trách nhiệm của các thế hệ mai sau đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời Người cũng nhắn nhủ rằng, dù dựng nước đến mấy cũng không thể quên ơn tổ quốc. công lao của những người đã xây dựng và tạo ra Quốc gia. Chỉ với hai chữ “sổ đầu” cũng thể hiện tấm lòng thiêng liêng cao cả hướng về quê cha, đất tổ.

 “Trong anh và em hôm nay/…/Đất nước nay tròn, rộng lớn”, bài thơ khẳng định, Đất nước trường tồn, bền vững là nhờ tình người đoàn kết, tình yêu lứa đôi. Chỉ khi có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì đất nước mới tròn và lớn. Và từ đó, Người nêu cao trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như của cả thế hệ trẻ đối với đất nước: “Hỡi anh em, Tổ quốc là xương máu của chúng ta/ Phải biết gắn bó và sẻ chia/ Phải biết hóa thân/ Phải làm nên đất nước mãi mãi”. Bởi vì:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi địa danh ấy đều gắn với một cuộc chiến, với sự hy sinh thầm lặng để đất nước trường tồn. Chính vì thế, ông đã rút ra kết luận: “Còn đâu trong ruộng đồng gò bãi/…/ Đời đã hóa núi sông ta”.

Làm nên đất nước chắc chắn không thể là một cá nhân có thể tạo ra văn hóa, truyền thống và lịch sử của dân tộc. Vậy họ là ai, là những người nào?

Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Quả thật, đó là những con người vô danh, họ là những cô gái, những chàng trai, họ “sống chết” “bình dị” họ có tên làng, tên xã, mang theo những phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho hệ thống tương lai. Họ là những người đã làm nên đất nước. Với thủ pháp liệt kê và nhắn “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mắt người đọc một lớp người vô danh nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác, truyền lại cho con cháu những giá trị vật chất tinh hoa. thần cao quý nhất. Và mục tiêu của họ là:

Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một cách mạnh mẽ quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và con người. “Trở về với cội nguồn đất nước cũng là trở về với cội nguồn văn hóa dân gian giàu đẹp” nơi khởi đầu của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Bài thơ khép lại bằng một tiếng hát kiêu hãnh, ngân nga tưởng như âm vang cả non sông. Đồng thời, tiếng hát ấy cũng thể hiện niềm tự hào, thiết tha sâu sắc của tác giả đối với truyền thống văn hóa đất trời của cha ông sẽ trở về.

Đất Nước là bài thơ suy tư, triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Qua bài thơ này, người đọc được mở mang kiến thức và có cách nhìn mới về đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó, em cũng thêm yêu và tự hào về nơi mình sinh ra và lớn lên.