Phân tích đoạn một bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích đoạn một bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bạn đang xem: Phân tích đoạn một bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn bài phân tích đoạn một bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

Mở bài:

– Sơ lược về nền văn học trong những năm 1945-1975, cùng với đó giới thiệu tác phẩm.

Thân bài:

*Đất Nước đã có từ bao giờ?

– Đất Nước đã ra đời từ rất lâu, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ ngày xưa.

– Gợi ra những truyền thống thật tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, được dựa truyền thuyết.

+ Sự tích Trầu Cau, và khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là những tình nghĩa anh em sâu đậm, và tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của người dân ta đấy là tục ăn trầu nhuộm răng.

+ Truyền thuyết Thánh Gióng cũng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, và bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông ta.

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc đến người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà và các mẹ thời xưa.

+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là những đại diện cho truyền thống coi trọng những tình nghĩa vợ chồng.

+ Đất Nước có từ rất lâu đời được và hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong mỗi cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa, cấy cây…

*Đất nước là gì?

– Về với không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường” và “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi thật sự thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng đã lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’và “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương đất nước.

– Về thời gian lịch sử:

+ Quá khứ đó cũng là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi đó tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là những con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về những truyền thống hào hùng dựng nước và gìn giữ nước của cha ông.

+ Trong hiện tại, nơi Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, đã bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn sẽ  tồn tại trong từng nếp sống.

+ Trong tương lai đó là một Đất Nước với rất nhiều triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, đã được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc của cả Đất Nước.

*Tư tưởng Đất Nước của nhân dân nước ta:

– Trên phương diện không gian và địa lý:

– Cảm nhận từ Đất Nước đã trải qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của lãnh thổ Việt Nam bằng việc gọi tên những địa danh này qua từng dòng thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với miền quê hương, đất nước.

– Gợi nhắc những truyền thống thật sự tốt đẹp của dân tộc.

– Nhấn mạnh việc đất nước của chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó đã gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc chung một nhà của nhân dân ta.

– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, cũng là ý chí quyết tâm chống lại  giặc ngoại xâm của toàn thể dân tộc Việt Nam, đã nhắc lại thuở xây dựng đất nước thiêng liêng và hào hùng, rồi sau cùng còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc và con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.

=> Khẳng định một cách mạnh thật mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, rất nhiều công góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

* Phương diện thời gian và lịch sử nước ta:

– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ cũng chính là những người làm ra Đất Nước.

– Nhân dân không chỉ là người xây dựng, bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy lại là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Trên bình diện văn hóa:

– Tác giả cũng đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của dân tộc Việt đã nói chung.

– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, đó là nét đẹp say đắm nhất trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở nơi xung quanh mình.

– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”,  và từ đó có thể thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là giá trị vật chất tầm thường.

-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra một vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao nhiêu đời nay.

Kết bài:

– Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đất Nước của tá giả Nguyễn Khoa Điềm .

2. Phân tích đoạn 1 bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

Từ xưa cho đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của những nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của nền văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước mộng mơ. Quan điểm đó đã được ông thể đã hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường đầy khát vọng.

Đất nước đối với mỗi người có những quan điểm khác nhau. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm mến của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng lớp của khái niệm đất nước đã được tác giả dần dần lật mở ra. Nhà thơ không đưa ra định nghĩa bằng khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức chi tiết, cụ thể từ trong chính của cuộc sống thường ngày:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc

Hình ảnh Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, và từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan lũ quân xâm lược Ân thông qua khái niệm cụ thể mà tác giả đề cập. Chỉ biết rằng hình ảnh Đất nước ta từ ngày đó đã thấm nhuần trong mỗi đứa trẻ.

Không chỉ vật mà Đất Nước còn được gợi lên từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của cả dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” đã cho thấy những nét đẹp được hình thành ngay cả trong sinh hoạt văn hóa đời thường. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, dù bị Pháp hóa hay Hán hóa nhưng những nét sinh hoạt ấy vẫn được lưu giữ và tồn tại cho đến mãi về sau. Đất Nước cũng được từ hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ nên vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm sử dụn thuần thục nhiều câu ca dao như: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước đã được bắt nguồn từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng và cao quý.

Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Hai từ Đất nước chẳng phải xa lạ ở bất cứ đâu mà nó tồn tại ngay trong không gian sinh hoạt của xóm làng, thôn quê. Nhà thơ đã sử dụng những từ hoa mỹ, xa vời mà làm sáng tỏ bằng những ngôn ngữ bình dị. Đó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn ,và nơi nhớ nhung. Và để đó làm sâu sắc thêm khái niệm, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ khái niệm ấy từ quá khứ lịch sử: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào chúng ta trong bọc trứng”. Bằng cách lý giải sâu sắc trên hai phương diện lịch sử và địa lý, nhà thơ đã dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm của Đất Nước. Đồng thời, để Đất nước trở nên nguyên vẹn, hoàn chỉnh, cần có sự góp sức cùng xây dựng và bảo vệ đất nước. Do đó, Nguyễn Khoa Điềm chẳng định vao trò quan trọng của mỗi người trong cuộc sống đối với Đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và chỉ sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần những người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ đến ngày giỗ tổ”. Ông cha ta trải qua ngàn năm lịch sử hy sinh để bảo vệ sự bình yên, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc với  quyết tâm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Lời thơ nhắc nhở con cháu sau này phải tiếp tụ giữ vững, bảo vệ thành quả của ông cha ta, mỗi thế hệ con cháu sau này có vai trò vô cùng to lớn trong việc gìn giữ và xây dựng quê hương, đất nước.

“Trong anh em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”

Đất nước có thể tồn tại và phát triển như ngày hôm nay nhờ vào tình yêu to lớn được bắt nguồn từ tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa. Sự hòa hợp giữa cái chung cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì đã tạo thành một tập thể to lớn, vẹn tròn. Và từ đó nhà thơ cũng nêu lên vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ sau này đối với đất nước là : “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời” bởi vì:

Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được Nguyễn Khoa Điểm nhắc đến trong bài thơ. Mỗi địa danh ấy lại gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời cho bao thế hệ mai sau. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra một kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông của ta”.

Để xây dựng nên một nhà nước hoàn hảo thì chắc chắn rằng nó không thể được tạo lên từ một cá nhân cụ thể mà từng nét văn hóa, lịch sử của dân tộc phải được xây dựng từ nhiều cá thể, cộng đồng tập hợp lại qua từng thời kỳ khác nhay. Vậy đó là ai và là tất cả ở đây là những người nào?

Để làm nên đất nước luôn chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống, lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là tất cả những người nào?

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Quả đúng, câu trả lời cho câu hỏi là ai thì tác giả đã trả lời một cách trầm lặng đó là một người hay nhiều người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang lại phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho các thế hệ mai sau tiếp tục gìn giữ và phát huy và  Chính họ là những người cũng đã làm nên Đất nước như ngày hôm nay. Với biện pháp liệt kê và điệp là “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật với chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến đó chính là:

Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Đến đây Nguyễn Khoa Điềm cũng đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng của mình về đất nước nhân dân. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi nguồn từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân nước ta. Đồng thời đây cũng là nơi làm nên và khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Bài thơ kết thúc bằng những tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng đến khắp các vùng sông núi Việt Nam. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy một niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối sự với nét đẹp truyền thống văn hóa ngàn đời của thế hệ đi trước để lại cho chúng ta.

Đất Nước là một bài thơ giàu suy tư và triết lý, thể hiện ý niệm rất riêng, rất mới mẻ và đầy đủ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại đã được mở rộng thêm tri thức, có thêm cái nhìn toàn diện hơn về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm và yêu mến, tự hào với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên với bề dày lịch sử.

3. Phân tích đoạn thơ đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những trang thơ đậm chất suy luận, nhưng lại thấm đẫm, nồng nàn trong cảm xúc. Bởi thế mà dẫu viết về một đề tài đã cũ, đã quen, nhưng cách khai thác chất liệu mới mẻ, sáng tạo đã giúp nhà thơ tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc. Đặc biệt, 9 câu thơ mở đầu Đất Nước, trong mạch cảm xúc trăn trở, tìm về cội nguồn lịch sử của dân tộc, đã thể hiện rất rõ điều đó.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Đất Nước đã lớn lên, và được hình thành dựng xây từ khi ta còn chập chững những tiếng khóc đầu tiên, từ trong mạch nguồn văn hóa thẳm sâu, mà trước hết ở đây, nó hiện diện trong lời kể của mẹ. Mẹ kể cho ta nghe về những câu chuyện cổ tích thuở xưa, và nhuần thấm trong những câu chuyện dân gian bay bổng, lãng mạn chất chứa mơ ước hi vọng của người dân lao động nghèo, là hình ảnh đất nước một nắng hai sương có từ ngày đó. Nghĩa là, Đất Nước đã gắn liền với mỗi người từ thuở ấu thơ, từ những gì thân thương bình dị nhất, chính vì thế mà đất nước hiện lên không phải là hình ảnh quá đỗi lớn lao, vĩ đại của non kỳ thủy tú, giang sơn gấm vóc tươi đẹp trong thơ ca trước đó ta từng thấy, mà nó đẹp trong nét mộc mạc, gần gũi, giản dị của chính nó. Để rồi, tiếp tục mạch chảy của các chất liệu dân gian, hình ảnh đất nước hiện lên như được bồi đắp, tạo xây vẻ đẹp lịch sử, sâu xa của mình từ những phong tục tập quán của người Việt cổ, trong những truyền thuyết lịch sử hào hùng:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”

Hình ảnh miếng trầu có lẽ đã trở nên rất đỗi quen thuộc trong các bài ca dao, dân ca, trong cả những câu hát giao duyên của tình yêu đôi lứa: trầu này trầu tính trầu tình, ăn vào cho đỏ môi mình môi ta. Mượn chất liệu dân gian gắn liền vẻ đẹp của phong tục văn hóa để trả lời cho câu hỏi về mạch nguồn lịch sử đất nước, đã giúp cho câu văn của Nguyễn Khoa Điềm không triết lý khô khan, mà nhuần thấm những phong vị xưa, mềm mại, bay bổng. Rồi cả sự tích Thánh Gióng đánh giặc cũng được liệt kê một cách khéo léo vào mạch thơ, từ đó làm nên sự hài hòa của các chất liệu dân gian. Tục bởi tó, đặt tên mộc mạc, chất phác của người Việt xưa, kết hợp những yếu tố ấy lại với nhau, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm muốn khẳng định, Đất Nước không chỉ có trong ký ức tuổi thơ, mà còn hòa mình đằm thắm vào mạch nguồn văn hóa, tạo nên nét đẹp gần gũi, bình dị và thân thương đến lạ với người đọc khi cảm nhận tác phẩm.

Không chỉ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về sự hình thành đất nước, nhà thơ còn gián tiếp qua đó gợi hình ảnh tần tảo của người dân lao động cần lao, đồng thời khắc họa nét đẹp tâm hồn của con người dân tộc.

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Bằng cách sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian, 9 khổ thơ đầu đã giúp Nguyễn Khoa Điềm không chỉ trả lời cho câu hỏi về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước, mà còn như gợi lại trong thẳm sâu tâm hồn người đọc những vẻ đẹp văn hóa phong tục đã được đắp bồi dưỡng nuôi trong hàng ngàn thế hệ, cũng từ đó, như một cánh cửa, đưa ta ngược dòng về với vẻ đẹp bình dị, xưa cũ của dân tộc.

4. Phân tích đoạn một bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca Mặt đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của tường ca. 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên quan điểm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì đất nước đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.

Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích truyền thuyết ra đời là từ đất nước.

Đất Nước hiện diện lên trong truyện cổ. Đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời của Việt Nam ta.

Hình ảnh của “miếng trầu” cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất nước, khởi đầu cho một nền văn hiến.

Bắt đầu của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu của một Đất Nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.

Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.

Tiếp theo đó là những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đầu tiên đó chính là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái mộc mạc Việt Nam, tuy giản dị nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng một cách hết sức tự nhiên nhưng cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình con người , gợi lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.

Rồi đến câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ máu dồn thành sự sống phát triển đất nước.

Và cả truyền thống cần cù lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc ta nữa “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Câu thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù và lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu.

Đó chính là truyền thống lao động cần cù, miệt mài chịu thương chịu khó. Các động từ như “Xay – giã – dần – sang” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân vất vả nắng mưa.

Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó … “. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.

Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca.

Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ luôn luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.

Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của con người của nhân dân.