1. Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà:
Mẫu dàn ý số 1:
Mở bài:
– Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỷ XX. Nền văn xuôi Việt Nam luôn in hằn dấu vết của sự nghiêm túc và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật của ông.
– Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu và là một trong những thành công thể hiện chí hướng và tư duy của ông sau Cách mạng tháng Tám.
Thân bài:
* Hình ảnh sông Đà:
a. Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà:
– Dòng sông Đà bị một hòn đá chặn ngang giống như một cái yết hầu.
– Đứng bờ bên này cẩn thận ném hòn đá sang bờ bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
– Chỉ lúc đúng ngọ thì mặt sông mới có mặt trời.
– Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ đặc biệt giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh nhằm khắc họa từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ từ đó tạo dựng nên cảnh bờ sông một cách sống động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở.
– Những cái hút nước ở Tà Mường Vát giống như những cái giếng bê tông khổng lồ đang xoáy tít. Toàn nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dài. Nước sông như bị nghẹt thở. Nếu ngồi trong thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”
– Ngôn ngữ được sử dụng ở đây vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, vô cùng nguy hiểm được miêu tả một cách rõ nét, chân thật, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông
– Dòng sông dài hàng cây số. Cảnh tượng sông dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm giống như lúc nào cũng đòi nợ người lái đò sông Đà
– Quãng này mà chủ quan, khinh suất tay lái thì dù tay lái có điêu luyện đến đâu cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra
→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, điệp ngữ và các điệp cấu trúc gợi lên sự chuyển động dồn dập của sóng và gió phối hợp với nhau tạo nên những đường nét dữ dội cho sông Đà.
– Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, Trận thủy chiến trên sông với sự bố trí đan trận nhiều vòng vây cùng lực lượng phối hợp của các tảng đá, các con sóng ngầm hò la vang động núi trời…
– Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả được sử dụng, tác giả khơi gợi lên hình ảnh con sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình đau đớn qua những tảng đá. Từ đó người đọc cảm nhận được sự uyên bác trong trang văn, sự hóm hỉnh, linh hoạt trong sáng tạo của tác giả.
b. Hình ảnh nên thơ, trữ tình:
– Hình ảnh con sông Đà chảy ngang qua vùng bình nguyên hoặc khi tác giả đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà giống như một người bạn hiền hòa đến lạ của con người.
– Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dạng, lấp lánh qua cái nhìn say đắm, chìm sâu của tác giả
– Khi tác giả từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh tựa như có một đứa trẻ nào đó đang nghịch chiếu gương… sáng lên như một màu nắng tháng ba.
→ Hình ảnh thơ mộng kết hợp với phép so sánh giàu giá trị biểu cảm, cộng thêm ngôn từ linh hoạt, mềm mại làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ của sông Đà.
– Phép so sánh “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân…” độc đáo, mới lạ cùng với giọng văn nhẹ nhàng cho người đọc cảm nhận về vẻ hồn nhiên, thanh bình của dòng sông.
– Với góc nhìn đa chiều, tác giả còn nhìn một vẻ đẹp thân thiện, dễ mến, hơi ấm của tình người trong dòng sông mà không dễ gì nhận thấy. Dòng sông trở nên người bạn hiền dịu, cởi mở chờ đợi người phương xa trở về.
– Dưới thuyền nhìn lên tác giả thấy hình ảnh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, không chỉ vậy mà còn hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
→ Phép so sánh độc lạ, từ không gian Nguyễn Tuân liên tưởng về thời gian, mở rộng biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ kính nhưng thuần khiết, đậm màu sắc cổ tích
– Có mấy con hươu ăn cỏ ướt nước sương trên đồi cỏ non. Tiếng cá đập nước,…
– Dòng sông trở nên hồn nhiên, hoang sơ, tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn nhờ có biện pháp nhân hóa giàu chất thơ. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông đã góp phần tô điểm cho cảnh quang của non sông đất nước.
– Ngôn từ linh hoạt, phong phú, giàu sức gợi cho thấy một Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê văn chương là tình yêu tổ quốc, nâng niu tiếng mẹ đẻ…
* Hình ảnh ông lái đò:
a. Ngoại hình, giọng nói:
– Tay chân ông lêu nghêu như cái sào chân khuỳnh khùng kẹp lại như đang giữ một cái sào tưởng tượng, đầu tóc bạc, thân hình ông cao to và đặc quánh như sừng mun, cánh tay rắn chắc..
– Giọng ông áo ào như tiếng sóng nước
– Thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi được thể hiện qua gôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp so sánh. Cách liên miêu tả của Nguyễn Tuân làm chúng ta liên tưởng đến ngoại hình của ông lái đò thật đặc biệt
b. Niềm say mê lao động:
– Ẩn sau hình ảnh bình dị của người lái đò là một người anh hùng vô danh, thầm lặng mà đầy vinh quang. Ông lúc nào cũng tâm huyết với nghề, không hề thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng tự hào.
– Hình ảnh người lao động trong thời kỳ mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, có bản lĩnh, dũng cảm chinh phục thiên nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.
c. Tính cách:
– Qua cách chiến đấu với con sông Đà, người đọc có thể rõ rành nhận thấy ông là một người có tri thức, năng lực.
– Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, ông thuộc làu địa hình dòng sông vì đã làm nghề lâu năm
– Ông như người chỉ huy quân sự tài ba nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá…
– Là người mưu trí, tài ba, khôn ngoan, có phong thái ung dung.
– Khi ra trận ông giống như một người anh hùng và nghệ sĩ
– Ông bình tĩnh lái đưa con thuyền vào bày binh bố trận của dòng sông, sẵn sàng vật lộn với con thủy quái. Ông lao vào trận địa như viên tả tướng đầy dũng mãnh
– Hình ảnh người lái đò mang đậm dấu ấn phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân
Kết bài:
Người lái đò trên sông Đà không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp sông Đà, mà còn tiêu biểu cho vẻ đẹp của người lao động. Qua đó thể hiện tri thức và sự hiểu biết của tác giả để tạo nên một tác phẩm văn học uyên bác.
Mẫu dàn ý số 2:
Mở bài:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam.)
Thân bài:
* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà:
– Từ trên máy nhìn xuống, dòng sông Đà chảy dài như mái tóc trữ tình, chân tóc thoắt ẩn thoắt hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa bạn, hoa gạo đua nhau khoe sắc.
– Sông Gâm vào mùa xuân có xanh màu ngọc bích khác với màu xanh canh hến vủa sông Lô. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”
→ Mỗi mùa Sông Đà có vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
– Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân, hai bên bờ là những cảnh vật vô cùng đáng nhớ: bãi ngô nhú lá non, con nai “ngẩng đầu nhung nhớ cỏ sương”. Con sông Đà như gợi bao cảm xúc, đậm chất lịch sử Việt Nam: bãi sông hoang sơ như bãi tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa.
→ Nguyễn Tuân say sưa miêu tả dòng sông trong tất cả cảm xúc phức tạp và tình yêu nồng nàn của nó. Ngưỡng mộ, trân trọng và tự hào về non sông đã tạo nên những chiếc lá đẹp hiếm có.
* Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà:
a. Cảnh núi đá hai bên sông dựng đứng như bức tường thành, ở giữa là khúc sông hẹp:
– Dòng sông Đà bị một hòn đá chặn ngang giống như một cái yết hầu.
– Đứng bờ bên này cẩn thận ném hòn đá sang bờ bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
– Chỉ lúc đúng ngọ thì mặt sông mới có mặt trời.
→ Người viết sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận (thị giác, xúc giác).
b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:
– Dòng sông dài hàng cây số. Cảnh tượng sông dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm giống như lúc nào cũng đòi nợ người lái đò sông Đà
– Quãng này mà chủ quan, khinh suất tay lái thì dù tay lái có điêu luyện đến đâu cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra
→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, điệp ngữ và các điệp cấu trúc gợi lên sự chuyển động dồn dập của sóng và gió phối hợp với nhau tạo nên những đường nét dữ dội cho sông Đà.
c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:
– Dòng sông có những cửa hút nước giống như ai đó thả cái giếng bê tông xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu
– Nước ở đây rít và kêu lên như cái cửa cống bị sặc, những cái giếng sâu nước cứ ặc ặc lên như dầu sôi vừa được rót vào
– Những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý
→ Việc sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo tạo cảm giác về sự nguy hiểm của sông Đà.
* Hình ảnh người lái đò sông Đà:
‐ Ông là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò bởi ông đã xuôi ngược hơn một trăm lần trên sông Đà
‐ Ông là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: bình tĩnh đối đầu với con thác dữ, dù đau nhưng vẫn nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo, không chỉ vậy ông còn nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi cách bày binh bố trận của sông Đà, động tác điêu luyện cưỡi trên ngọn thác
‐ Người lái đò thực sự là người nghệ sĩ tài hoa và là vị chỉ huy tài ba: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
Kết bài:
‐ Nội dung: Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của người lao động và vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước.
‐ Nghệ thuật: ngôn ngữ điêu luyện, trí tưởng tượng độc đáo, vận dụng hiểu biết về nhiều môn nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng con sông Đà và người lái đò.
2. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà hay nhất:
Mỗi nhà văn đều có quan điểm sáng tạo riêng theo họ suốt sự nghiệp văn chương. Nhưng có lẽ Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt, bởi quan điểm sáng tác và phong cách văn học của ông trước và sau năm 1945 có sự khác biệt rõ rệt. Nếu trước năm 1945 người ta biết đến Nguyễn Tuân với những hoài niệm về quá khứ cùng tác phẩm “Chữ người tử tù” thì sau năm 1945 người ta lại biết đến Nguyễn Tuân với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” cùng nghị lực sống, tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Bài văn Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà” là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân lên vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa lửa” ngay trong chính cuộc sống đời thường. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tự hào giới thiệu nét nên thơ, hùng vĩ mà khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình tượng sông Đà hung bạo mà trữ tình. Đồng thời, nhà văn phát hiện và ngợi ca nghệ thuật, tài năng và lòng dũng cảm của người lao động mới qua hình tượng người lái đò sông Đà.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ giới hạn ở sự dữ dội thì không có gì đáng để nhà văn yêu, nhưng chính dòng sông này lại mang một vẻ đẹp khác vô cùng thơ mộng, trữ tình, làm xao xuyến lòng người: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, nhà văn Nguyễn Tuân giúp bạn đọc có thể có những hình dung sống động hơn về con sông Đà giống như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc suôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa. Mùa xuân dòng sông màu xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không có xanh màu xanh canh hến như Sông Gâm hay Sông Lô. Vào mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn.
Dòng sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba cùng những không gian và khung cảnh nên thơ “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Ở đây cảnh ven sông vắng lặng, bờ lặng và đôi bờ êm đềm. Dòng sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như cổ tích xưa. Cũng có ngô non nhú lên ở cảnh sông nước ruộng đồng trổ lá non đầu mùa, đồi núi cỏ cây đâm chồi nảy lộc. Một đàn hươu cúi xuống ăn cỏ đẫm sương.
Vẻ đẹp mãnh liệt, dữ dằn đan xen với vẻ đẹp thơ mộng trữ tình cùng sự tinh tế trong cảm nhận, tình yêu thiên nhiên đất trời sâu sắc đã khiến Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông này: ngưỡng mộ, trân trọng, âu yếm và niềm tự hào về quê hương, đất nước đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có với những từ ngữ bác học và những liên tưởng thú vị.
Đã nhiều năm trôi qua nhưng người đọc chưa bao giờ quên lối viết “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân với những bài tùy bút và hình ảnh sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ đón nhận.
3. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân:
Nguyễn Tuân là một trong những tác giả văn xuôi đương đại tiêu biểu. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về vẻ đẹp và cuộc sống. Và bài văn “Người lái đò sông Đà” là một bài văn như vậy. Tác phẩm nhấn mạnh hình ảnh con sông Đà mang hai tính chất tiêu biểu: hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Nguyễn Tuân với sự hiểu biết sâu rộng, những mối quan hệ máu thịt gắn bó, niềm đam mê sáng tác cháy bỏng đã biến dòng sông tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, một sinh vật có tâm hồn riêng, trên hết là tái hiện vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của ngòi bút Nguyễn Tuân và chinh phục trái tim người đọc.
Nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ và tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là khi ông đi máy bay trên sông Đà, lúc thì nhìn gần khi đi từ khu rừng ra, lúc thì lại đi thuyền trực tiếp trên sông. Trước hết chúng ta sẽ phân tích về cảm nhận của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống. Ở tầm nhìn này, tác giả sông Đà “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, nghệ thuật này đã cho chúng ta hình dung về dáng hình mềm mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn như hình con rồng ở núi rừng Tây Bắc. Không chỉ vậy, tác giả còn sử dụng phép trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để khắc học một cách sâu sắc hơn vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của dòng sông Đà, tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Từ “tuôn dài” cứ được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh chiều dài của con sông Đà trải suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Nguyễn Tuân so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình kết hợp nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng, yêu kiều, ẩn hiện trong mây trời của núi rừng Tây Bắc. Mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của sông Đà. Đứng trước hai loài hoa của mùa xuân của núi rừng Tây Bắc là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết là động từ “bung nở” là một động từ mạnh càng làm tăng thêm cảm nhận của người đọc về sự vận động của màu sắc cứ rạo rực rồi bừng lên thật lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt. Phép tu từ giúp Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà và gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy của cô gái Tây Bắc e ấp. Nguyễn Tuân phải yêu sông Đà lắm mới say đắm nhìn xuyên qua mây xuân mà thấy “sông xuân xanh màu ngọc bích”, một phép so sánh tài hoa làm nổi bật màu sông Đà vừa xanh vừa trong, một ánh sáng xanh rực rỡ tràn ngập cả không gian khi dòng sông Đà bỗng biến thành một khối ngọc bích khổng lồ. Vào mùa thu, qua làn sương thu, nước sông Đà đỏ ngầu tựa “mặt người say rượu”, gợi cảm giác nước sông Đà giàu phù sa, mang lại sự màu mỡ cho bao cánh đồng phì nhiêu. Khi đi từ rừng ra tác giả lại thấy nước sông Đà sáng ngời như đứa trẻ đùa nghịch với tấm gương phản chiếu ánh mặt trời, ánh sáng này còn cho ta cảm giác nước sông Đà rất trong và ấm áp. Ngoài ra còn có sắc màu lộng lẫy của chuồn chuồn và bướm bay trên bờ sông.
Nguyễn Tuân đặc biệt ấn tượng với cảnh vượt sông Đà bằng thuyền bởi mặt sông của những con sông này rất “bình lặng”, gợi một không khí cổ kính, tĩnh lặng và đầy huyền thoại. Cả đôi bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích, bởi có nhiều hình ảnh thật nên thơ: “đàn nai ăn cỏ” hiền hòa, như đang hỏi khách sông Đà, tiếng cá đập mặt nước làm cho đàn nai biến mất, đàn cá nhảy xuống nước “như bạc rơi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa trù phú.
Bằng con mắt yêu đời, trìu mến và tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên đẹp đẽ, tráng lệ của sông Đà, khiến tác giả so sánh dòng sông có lúc như một cố nhân, có lúc như một người tình của quá khứ. Tài năng của Nguyễn Tuân đã truyền đến người đọc biết bao tình cảm yêu thương và hình ảnh sông Đà sẽ sống mãi trong lòng người đọc.
Thành công nổi bật của tùy bút “Người lái đò sông Đà” là bức tranh thiên nhiên hết sức chân thực xen lẫn cảm hứng mãnh liệt, say mê của Nguyễn Tuân. Những nét nghệ thuật, nhiều biện pháp tu từ và một kho ngôn ngữ phong phú đầy chất liệu quan trọng đã làm cho sông Đà tự nhiên mãi mãi là một dòng sông nghệ thuật.
4. Viết đoạn văn ngắn phân tích Người lái đò sông Đà:
Kho tàng văn học Việt Nam ghi dấu và xưng danh nhiều nhà văn, nhà thơ tài hoa. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – cây bút tài hoa với những sáng tác đặc sắc. Ông được coi là một trong những nhà văn tùy bút thành công nhất. Tiêu biểu trong các tác phẩm của ông là bài Người lái đò Sông Đà. Dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp dữ dội, dữ dội để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự “hung bạo” của thượng nguồn sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và những thác nước hung bạo. Tuy nhiên, ông khiến chúng ta nhận ra một điều: bên trong sự hung bạo ấy là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên trần gian. Sông Đà hung dữ nhất là ở cảnh có “đá dựng đứng” hai bên bờ làm khoảng cách giữa hai bờ dòng sông bị thu hẹp và lòng sông chỗ ấy phải lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời, hẳn là một nơi thiếu ánh sáng. Khi đi thuyền qua đây, lúc đó đang là mùa hạ mà trời có vẻ se lạnh, chứng tỏ nơi đây thiếu hơi ấm. Sông Đà hung bạo ở mặt ghềnh Hát Loóng “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Ghềnh tạo thành bãi đá ngầm dài hàng cây số, nước – đá – sóng – gió đẩy nhau. Tác giả miêu tả khung cảnh bằng các câu trùng điệp khắc họa hình ảnh con sông Đà là nơi những con sóng dữ dội ngày đêm đua nhau đập vào đá. Hình ảnh hút nước nhấn mạnh sự hung bạo của dòng sông, cho thấy những nguy hiểm của việc hút nước của sông Đà cả trên bề mặt và dưới sâu. Mặt sông Đà hút nước, tác giả đã sử dụng những hình ảnh so sánh, so sánh việc “hút nước” với chiếc giếng bê tông được hạ xuống sông để chuẩn bị xây cầu, và “nước thở nghe như tiếng nghẹt thở của một cửa cống.” Với những hình ảnh tham khảo này, chúng ta hình dung bề mặt hút nước rất rộng, lưu lượng và lực cản của nước rất lớn, bất kỳ chiếc thuyền nào vô tình đi qua đó, không biết đi với tốc độ bao nhiêu đều sẽ bị nước hút vào, kéo xuống và làm cho tan xác.
Mỗi tuyến của dòng sông lại có một nhiệm vụ khác nhau: nhiệm vụ của hàng tiền vệ là canh cửa giả làm sơ hở dụ dỗ đối phương, nhiệm vụ của trung vệ là đánh cánh – tức là đánh bất ngờ, không để địch kịp trở tay, tuyến trong cùng sông Đà giao nhiệm vụ cho boong – ke chìm và pháo đài đá nổ để tiến công tiêu diệt địch triệt để. Ta có thể thấy, sông Đà đã chủ động tổ chức lực lượng ra trận rất cẩn mật, có kế hoạch tiêu diệt địch bằng một chiến lược, chiến thuật nhất định. Sông Đà không chỉ có cá tính, khí phách mà còn có mưu mô, tâm địa độc ác, nó trở thành một loài thủy quái và là kẻ thù số một của con người.
Có thể nói, hình tượng sông Đà nói chung và sự hung bạo của dòng sông nói riêng ở thượng nguồn đã bộc lộ vẻ đẹp, “tính cách” của sông Đà và sự dụng tài, uyên bác, hiểu biết sâu rộng nhà văn Nguyễn Tuân. Qua hình ảnh con sông Đà ta cảm nhận được niềm tin yêu, tình cảm yêu cuộc sống của nhà văn và tình yêu quê hương, tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.