Nhà văn nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã có đánh giá khi nói “Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Quả thật, khi đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà” do Nguyễn Tuân viết, người đọc sẽ bị ấn tượng bởi tài hoa của ông lái đò, nhất là khi đọc đến cảnh vượt thác một cảnh tượng có một không hai.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế năm 1958 của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Tuân đã đến với nhiều vùng đất khác nhau, ông sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Sống cùng thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960). Văn bản trong sách giáo khoa gồm có ba phần. Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Và cảnh vượt thác đặc sắc nhất của tác phẩm nằm ở phần thứ hai với ba trùng vi chiến trận nối tiếp nhau làm nổi bật rõ tài năng của ông lái đò.
Không khí chiến đấu hiện lên ngay từ câu mở đầu: “Tiếng thác nghe như than phiền, rồi như van xin, rồi như khiêu khích, một giọng gay gắt, chế giễu. Rồi gầm lên như tiếng hàng nghìn con trâu rừng đánh nhau”. giữa rừng tre lửa cháy tàn, rừng lửa ầm ầm đàn trâu cháy…”. Ở vòng đầu tiên, sông Đà bố trí đội hình đá “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Mặt đá nào cũng “ngỗ ngược, đá nào cũng nhăn nheo, méo mó”. Khi “sự hình thành mảng đá vừa xong cũng là lúc con thuyền lao vút về phía trước”. Câu nói thể hiện sự sẵn sàng ra trận của người lái đò. Nhưng Thác Đá Sông Đà rất thông minh, không chiến đấu trên mặt trận tay đôi mà chiến đấu bằng nghệ thuật chiến tranh tâm lý. Trước đó, họ đã dùng âm thanh của thác nước để khiêu khích họ “bằng giọng nói gay gắt và chế nhạo”. Bây giờ họ dựa vào “thác nước làm chỗ dựa cho đá”. Với bản tính hung hãn như thủy quái, sông Đà chủ động tấn công người lái đò bằng những đòn tấn công cực kỳ nguy hiểm. Sông Đà dựa vào đội quân hùng mạnh của nhiều tướng nên “lao vào bẻ gãy cán mái chèo”, “liều mạng áp sát vào nách và đá trái”, “quỳ vào bụng và mạn thuyền” , và có lúc họ “nâng cả con thuyền”. Bị tấn công, người lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đề xuất chiến lược phòng thủ để bảo toàn sức mạnh cho đợt tiếp theo. Bởi vậy “người chèo thuyền giữ mái chèo bằng cả hai tay để khỏi bị văng ra khỏi sóng”; Lúc này, sông Đà đổi tư thế bám vào thuyền và dùng đòn vật để “tóm lấy thắt lưng người lái đò, buộc lật người”. Không cho người lái đò cơ hội cơ động, sông Đà quay lại tung đòn hiểm độc nhất, “cả dòng nước vô ý siết chặt phần thân dưới của người lái đò”. Bị trúng một đòn nguy hiểm, mắt anh đỏ hoe và “khuôn mặt trở nên méo mó”. Nhưng ông lái đò vẫn chịu đựng đau đớn, giọng nói vẫn bình tĩnh, cảnh giác và lạnh lùng ra lệnh cho sáu tay chèo còn lại vượt qua cửa tử và vào cửa sinh mệnh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm cửa tử, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” để lừa thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân cũng đã phải nhận xét về trận chiến lúc đó: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nhưng với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, người lái đò đã không rơi vào bẫy. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Giống như một huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, trong trận đấu này người lái đò quyết định tấn công phủ đầu với phương án tấn công nhanh và thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết” … tốc độ di chuyển nhanh. Nhưng thực sự là một đối thủ đáng gờm, phản ứng của sông Đà không hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn nhớ khuôn mặt kẻ thù quen thuộc, người lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, cửa tử đều bị bỏ lại, chỉ có thể nghe thấy tiếng thác nước không ngừng khiêu khích.
Cao trào nhất là ở vòng cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không còn gì để mất đã quyết định tung ra mọi món đòn hiểm nhất của mình. Ở vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Vậy là cuối cùng, ông lái đò đã chiến thắng trước con sông đà hung dữ.
Đỉnh điểm là ở vòng đấu cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không còn gì để mất đã quyết định tung ra mọi đòn tấn công nguy hiểm nhất của mình. Vòng này ít cửa hơn nhưng 2 bên trái và phải đều là kênh chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói, trong trận chiến này, sông Đà đã sử dụng thế “trên đe dưới búa” khiến người lái đò rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng “cái khó lại ló cái khôn” người lái đò lật số thuyền sáu. Thuyền lao đi thành một mũi tên và Ngài, giống như một cung thủ, đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Vậy là người lái đò cuối cùng đã chinh phục được dòng sông hung dữ.
Đoạn văn cảnh vượt thác của ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả thật tài tình với ngôn ngữ giàu hình ảnh, là một cảnh tượng độc đáo, hấp dẫn người đọc đến từng câu từng chữ. Nhà văn đã thành công khi khắc họa cảnh tượng độc đáo này khi biến cuộc vượt thác trở thành một cuộc chiến đầy gay cấn và khốc liệt khiến cho người đọc cảm thấy hồi hộp khi đọc. Đặc biệt với việc sử dụng nhiều động từ mạnh để diễn tả sự cuồng nộ của con sông Đà. Mật độ động từ dày đặc diễn tả nhiều hành động liên tiếp dồn dập, mạnh mẽ khiến người đọc như nghẹt thở để rồi thở phào nhẹ nhõm khi kết thúc. Tất cả những điều này làm nổi bật nên sự tài hoa của người lái đò sông Đà.
3. Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà ngắn gọn:
Nguyễn Tuân là một người đam mê “chủ nghĩa xê dịch”. Truyện Người lái đò sông Đà trích trong tùy bút Sông Đà được ông viết trên hành trình tìm đến vùng cao Tây Bắc. Khi đọc tác phẩm này, có lẽ người đọc nào cũng phải ấn tượng cảnh vượt thác của ông lái đò một cảnh tượng độc nhất vô nhị và trầm trồ trước tài hoa của Nguyễn Tuân.
Người lái đò sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Tác phẩm có bố cục gồm ba phần chính: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội và hung bạo của con sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống của con người trên sông Đà và hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Cuộc vượt thác có một không hai nằm ở phần hai của tác phẩm với ba trùng vi chiến trận nối tiếp nhau làm tô đậm chất tài hoa của ông lái đò. Đối với Nguyễn Tuân lúc này, người nghệ sĩ chính là những con người lao động bình dị nhưng lại có chất nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình.
Thác đá sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Quả vậy, ngay ở vòng thứ nhất, con sông Đà đã bố trí đội hình chiến đấu với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn còn miêu tả tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò: “Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Đối chọi với thác đá là “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Thác đá sông Đà còn rất khôn ngoan khi không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà đánh bằng cả nghệ thuật chiến tranh tâm lý. Trước đó, chúng cũng đã dùng âm thanh của thác để khiêu khích bằng “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại dựa vào “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Bị trúng một đòn nguy hiểm, mắt anh đỏ hoe và “khuôn mặt trở nên méo mó”. Nhưng ông lái đò vẫn chịu đựng đau đớn, giọng nói vẫn bình tĩnh, cảnh giác và lạnh lùng ra lệnh cho sáu tay chèo còn lại vượt qua cửa tử và vào cửa sinh mệnh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm cửa tử, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” để lừa thuyền rơi vào cửa tử. Trận chiến lúc đó được Nguyễn Tuân nhận xét là: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nhưng dù sông Đà có lừa đến đâu thì với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, người lái đò đối diện không hề nao núng và không bị rơi vào bẫy. Nguyễn Tuân ví người lái đò giống như một huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, quyết định tấn công phủ đầu với phương án tấn công nhanh và thắng nhanh, “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết” … Nhưng thực sự đây là một đối thủ đáng gờm, phản ứng của sông Đà không hề thua kém trước chiến thuật của ông, “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn nhớ khuôn mặt kẻ thù quen thuộc, người lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, cửa tử đều bị bỏ lại, chỉ có thể nghe thấy tiếng thác nước không ngừng khiêu khích.
Ở trận đấu cuối cùng đỉnh điểm nhất, Sông Đà tung đòn quyết định. Vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái và bên phải đều là kênh chết, còn luồng sống thì ở ngay giữa hàng hậu vệ. Có thể nói, trong trận chiến này, sông Đà đã sử dụng thế “trên đe dưới búa” khiến người lái đò rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù vậy, vị thuyền trưởng ấy vẫn kiên quyết chỉ huy sáu người bơi “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”, chọc thủng hàng phòng ngự của địch. Lúc này, con thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Trận hải chiến kết thúc với phần thắng thuộc về người lái thuyền. Khi đọc, người đọc có cảm giác như thở phào nhẹ nhõm vì chiến thắng của người lái đò sông Đà.
Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” đã trở thành một cảnh tượng có một không hai, “xưa nay chưa từng có” góp phần tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò sông Đà. Còn Nguyễn Tuân đích thực là một nhà văn của cái đẹp, là một bậc thầy sử dụng ngôn từ.