Biểu hiện chứng tỏ trình độ đô thị hóa của nước ta còn thấp?

Bạn đang xem: Biểu hiện chứng tỏ trình độ đô thị hóa của nước ta còn thấp? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Biểu hiện nào sau đây chứng tỏ trình độ đô thị hóa của nước ta còn thấp?

A. Địa giới các đô thị được mở rộng.

B. Mức sống dân cư được cải thiện.

C. Xuất hiện nhiều đô thị mới.

D. Cơ sở hạ tầng còn lạc hậu.

Đáp án đúng: D

Giải chi tiết:

Biểu hiện chứng tỏ trình độ đô thị hóa của nước ta còn thấp là do cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, chưa được đầu tư phát triển đồng bộ và hiện đại.

2. Thực trạng cơ sở hạ tầng tại các đô thị tại Việt Nam:

Tỷ lệ dân số thành thị chưa cao

Đô thị hóa tại Việt Nam đang tăng nhanh về số lượng, được thể hiện chủ yếu ở 2 chỉ tiêu: tăng tỷ lệ dân số thành thị và tăng số lượng thành phố, thị xã, thị trấn.

Trên thế giới, tỷ lệ dân số thành thị đã đạt 55,3%, tức là quá nửa dân số thế giới đã sống ở khu vực thành thị. Hơn 1/3 tổng số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có trên 3/4 dân số ở thành thị, đặc biệt có 10 nước và vùng lãnh thổ đạt 100%.

Ở Việt Nam, tỷ lệ dân số thành thị đã tăng lên trong những năm qua. Nếu năm 1955 mới đạt 8,7%, năm 1975 đạt 20,6%, thì đến năm 2020 đạt hơn 40%. Không chỉ tăng về tỷ lệ dân thành thị, mà còn tăng số thành phố, thị xã, thị trấn. Năm 2020, cả nước có 862 đô thị, trong đó số thành phố trực thuộc trung ương là 5, số thành phố trực thuộc tỉnh là 73, số thị xã, thị trấn là 784.

Một yếu tố quan trọng đáng khuyến khích là ở khu vực nông thôn đã có nhiều doanh nghiệp được thành lập, bao gồm các doanh nghiệp do bản thân người ở khu vực nông thôn thành lập và các doanh nghiệp do người ở khu vực thành thị đưa vốn về thành lập. Khi các doanh nghiệp được thành lập, thì số người hình thành các “chợ lao động” ở thành phố đã giảm hẳn, đồng thời một số thị tứ, thị trấn được nâng cấp thành thị trấn, thị xã.

Với cách này, đã hình thành khu đô thị mới theo phương thức “ly nông bất ly hương”. Tỷ trọng lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản giảm nhanh (từ 73% năm 1990, xuống còn 32,8% năm 2020); tỷ trọng lao động thuộc 2 nhóm ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ tăng (tương ứng từ 27% lên 66,2%).

Tuy tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam tăng, nhưng vẫn còn thấp so với tỷ lệ chung của thế giới và so với nhiều nước trong khu vực (Brunei 77,6%, Malaysia 76,6%, Indonesia 55,3%, Thái Lan 49,9%, Philippines 46,9%).

Tỷ lệ dân số thành thị sẽ còn tăng nhanh hơn nữa trong quá trình đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã đến lúc Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng đô thị.

Hạ tầng giao thông đô thị chưa phát triển tương xứng với tốc độ đô thị hóa

Chất lượng đô thị được thể hiện ở nhiều mặt. Rõ nhất là giảm thiểu ùn tắc giao thông ở khu vực thành thị. Khi dân số thành thị đông hơn, phương tiện cá nhân gồm nhiều loại, tăng nhanh và đi lại nhiều hơn, thì ùn tắc giao thông sẽ khó tránh khỏi. Để giảm ách tắc, cần hạn chế phát triển phương tiện cá nhân, trên cơ sở phát triển nhanh giao thông công cộng, trong đó có xe buýt, đường trên cao. Đối với những đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM thì cần phát triển tàu điện ngầm.

Hạn chế việc tập trung dân số ở nội thành, trong đó đưa các doanh nghiệp, trường đại học, bệnh viện, cơ quan bộ/ngành ra ngoại thành; hạn chế việc xây dựng các chung cư cao tầng trong nội thành để giảm bớt mật độ đi lại. Mở rộng, nâng cấp đường giao thông, phát triển các cầu vượt ở các ngã tư, nhất là các lối vào nội đô. Đối với những khu vực đô thị mới, cần bảo đảm các tỷ lệ về xây dựng. Tỷ lệ dành cho giao thông, công viên, cây xanh của Việt Nam hiện còn thấp, chỉ bằng một nửa tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

Cùng với việc giảm ùn tắc là giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở khu vực thành thị từ nguồn nước, không khí, rác thải, tiếng ồn, tăng tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch. Hiện cả nước là 89,15%, trong đó Tây Nguyên mới đạt 66,64%, đặc biệt Gia Lai chỉ đạt 48%, Kon Tum 51,36%, Quảng Bình 51,51%, Tây Ninh 51,75%, Bình Phước 57,84%.

Vấn đề môi trường đô thị chưa được giải quyết triệt để

Trong phạm vi cả nước, số đô thị có công trình xử lý chất thải rắn đạt tiêu chuẩn quy định mới đạt 276/819, công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn quy định mới đạt 61/819.

Việc khử màu nước đen, mùi hôi của các kênh, mương đã có chuyển biến tích cực ở một số đô thị, nhưng vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Một mặt cần có hệ thống cống hộp để gom và thoát nước thải riêng, mặt khác phải có giải pháp trị tận gốc (xử lý ngay từ cơ sở sản xuất, kinh doanh trước khi cho thoát ra hệ thống thoát nước thải chung).

Chất lượng đô thị còn thể hiện ở đô thị hóa, thành thị hóa nông thôn, tránh tình trạng ngược lại là nông thôn hóa thành thị. Trong các nguy cơ đáng chú ý, cần ngăn chặn tâm lý tiểu nông, đây là điểm nghẽn của kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập. Không chỉ ở nông thôn hiện nay, mà điều đáng lo ngại là tâm lý này đã lan ra thành thị, thậm chí còn len vào tư duy và hoạt động của một số cán bộ, cơ quan quản lý.

3. Định hướng phát triển đô thị bền vững hướng tới mục tiêu kinh tế cạnh tranh và sống tốt, hiện đại và bản sắc:

Thứ nhất, Quy hoạch cần mang tính chiến lược thay vì toàn diện, linh hoạt thay vì cứng nhắc, mang tính hành động thay vì lý thuyết, tập trung vào quy trình thay vì sản phẩm, mang tính dài hạn thay vì nhiệm kỳ, tính đến toàn cầu hóa thay vì chỉ địa phương, hợp nhất liên ngành thay vì “mạnh ai nấy làm”…

Thứ hai, Quy hoạch có sự tham gia rộng rãi của công chúng và các bên liên quan thay vì ý chí chính trị và quan điểm chuyên gia thuần túy.

Thứ ba, Kiến tạo hình thức đô thị mới theo hướng thân thiện, bảo vệ môi trường tài nguyên và nâng cao chất lượng không gian sống.

Thứ tư, Xác định đúng vị trí của đô thị trong mối quan hệ hài hòa với: Đô thị vùng (mở rộng lĩnh vực không gian trong đô thị); Đô thị – tự nhiên (hình thái không gian theo điều kiện tự nhiên); Đô thị – nông thôn (chú ý tình trạng phát triển tự phát vùng ven đô); Quá khứ – hiện tại – tương lai (mở rộng lĩnh vực thời gian); Hiện đại và bản sắc, tạo nên sự hấp dẫn (so với quy hoạch hiện đại, quy hoạch chức năng cứng nhắc thiếu linh hoạt, quy hoạch đô thị hậu hiện đại chức năng linh hoạt, hợp lý, lại có tính đa phương và có thể bao gồm nhiều loại, từ không gian lịch sử, không gian trí tuệ, không gian tinh thần, không gian nghệ thuật và không gian văn hóa đến không gian tự nhiên); Kinh tế – thương mại (xanh, cạnh tranh), xã hội (hài hòa, sống tốt), khoa học kỹ thuật (tiên tiến) và môi trường (lành mạnh).

Thứ năm, Chọn mô hình phát triển đô thị phù hợp: tập trung hoặc phân tán hoặc kết hợp tập trung với phân tán; một trung tâm hoặc đa trung tâm.

Thứ sáu, Xây dựng tốt môi trường cư trú của con người (đi đôi với công bằng xã hội còn có công bằng về không gian và công bằng về môi trường).

Thứ bảy, Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và lành mạnh, giao thông thông suốt.

Thứ tám, Quản lý đô thị tốt (trong đó quản lý thực hiện quy hoạch là yếu tố hàng đầu)

Thứ chín, Xây dựng thiết chế quan trắc, dự báo, phòng ngừa và ngăn chặn các thảm họa do biến đổi khí hậu, thiên tai và sự cố công nghệ có thể xảy ra.

THAM KHẢO THÊM: