1. Nội dung và giá trị nghệ thuật của Tự tình 2:
1.1. Giá trị nội dung:
Bài thơ nói về bi kịch tình yêu và gia đình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời là tâm trạng vừa xót xa, vừa phẫn uất trước số phận và sóng gió cuộc đời, số phận cay đắng của họ dù đã cố gắng vượt qua vẫn rơi vào bi kịch cuộc đời.
Đoạn thơ cũng thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc – những điều rất đỗi bình dị, đơn sơ nhưng lại là khát khao, ước mơ cả đời của Hồ Xuân Hương nói riêng, của tất cả những người phụ nữ xã hội phong kiến nói chung.
1.2. Giá trị nghệ thuật:
Tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường luật với ngôn ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà ngược lại còn mang đến cho thể thơ cổ điển một vẻ đẹp mới mẻ, gần gũi, quen thuộc hơn với người Việt Nam.
Cách dùng từ giản dị mà độc đáo với những động từ mạnh (xuyên đất/ xuyên mây), từ tượng thanh đã thể hiện niềm khát khao cháy bỏng, rạo rực trong tâm hồn Hồ Xuân Hương.
Sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi (vầng trăng khuyết chưa tròn, rêu mọc thành cụm, bãi đá,…) để diễn tả những cảm xúc, sự tinh tế và phong phú trong tâm trạng người phụ nữ khi nghĩ ngợi đến danh tính của mình.
2. Dàn ý phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của Tự Tình 2:
2.1. Tác giả Hồ Xuân Hương và phong cách nghệ thuật:
– Hồ Xuân Hương (không rõ năm sinh, mất) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cô là một nữ nghệ sĩ, nhưng cuộc đời cô có nhiều khúc ngoặt.
– Bà sáng tác cả thơ Nôm và thơ Hán.
– Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương được coi là một hiện tượng độc đáo của văn học trung đại: nhà thơ nữ viết về phụ nữ; Thơ bà trào phúng mà trữ tình, đặc biệt đậm đà tính dân tộc từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình ảnh.
– Nổi bật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tiếng nói đồng cảm với người phụ nữ, đồng thời đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Vì vậy, Hồ Xuân Hương từng được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”.
2.2. Hoàn cảnh ra đời:
Tự Tình 2 là một trong những bài thơ trong chùm ba bài thơ của Hồ Xuân Hương. Bài thơ là sự dồn nén từ cô đơn đến bẽ bàng của nữ thi sĩ trong đêm thanh tĩnh.
2.3. Nội dung và nghệ thuật của bài Tự Tình:
1. Thể loại
– Bài thơ Tự Tình 2 được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
– Bố cục gồm: hai câu chủ đề, hai câu thực, hai câu luận và hai câu kết bài.
2. Nội dung
– Hai câu kết giới thiệu cảnh khuya với tiếng trống thu vọng từ xa. Khi ấy, nhà thơ – nhân vật trữ tình một mình giữa đêm khuya. Hai câu ngắn gọn chỉ 14 chữ nhưng diễn tả sâu sắc hoàn cảnh lẻ loi của người nữ sĩ trong đêm thanh tĩnh.
– Từ nỗi cô đơn, mất ngủ, không biết giãi bày hay tâm sự cùng ai, người viết lời buồn chán tìm đến rượu, mượn rượu để giải tỏa nỗi lòng. Nhà thơ muốn chìm trong men say để quên đi hiện thực đau buồn, bẽ bàng nhưng trớ trêu thay:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
– Cơn say rồi sẽ qua và khi tỉnh táo, nhân vật trữ tình giật mình trở về với thực tại và nhận ra sự trống vắng, tủi nhục của cuộc đời khi gặp “Vầng trăng khuyết chưa tròn”. Tỉnh táo, nhân vật trữ tình không chỉ nhận ra thân phận cô đơn của mình mà còn nhận ra một sự thật cay đắng hơn: tình yêu chưa trọn vẹn mà tuổi xanh đã dần qua.
– Từ những kỉ niệm về một mối tình không thành, hai đoạn thơ là nỗi thất vọng, phản kháng của nhân vật trữ tình. Hình ảnh từng đám rêu “xiên ngang mặt đất” như trêu ngươi nhà thơ, bởi rêu là minh chứng cho sự chai lì của thời gian và nó là hiện thân của sự mục nát. Ngắn gọn, vụn vặt, nhà thơ muốn bứt phá, thoát ly khỏi hoàn cảnh hiện tại.
– Nhưng em không cưỡng lại được, năm tháng trôi, thanh xuân qua mau, mà tình vẫn không vuông, thủy chung không tới, thủy chung chờ hoài, tuổi trẻ phai theo năm tháng.
– Mảnh tình quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là “sẻ chút con con”. Vì vậy, nhân vật trữ tình quay sang than thở thân phận của mình:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
-> Hai câu cực tả tâm trạng cay đắng, đáng thương của nhân vật trữ tình.
=> Tóm lại, Tự Tình 2 thể hiện tâm trạng, thái độ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương: vừa xót xa, cô đơn, vừa phẫn uất trước số phận; Càng cố vươn lên càng rơi vào bi kịch. Đằng sau nỗi buồn ấy là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nữ sĩ nói riêng và người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
3. Nghệ thuật
– Cách dùng từ của Hồ Xuân Hương rất giản dị, biểu cảm, táo bạo nhưng rất tinh tế. Bằng tài năng sử dụng ngôn từ, Hồ Xuân Hương đã mang đến cho bài thơ nhiều âm điệu với đầy đủ các sắc thái cảm xúc: xấu hổ, ngậm ngùi, phẫn nộ, phản kháng và cuối cùng là cay đắng, chán chường.
– Đặc biệt, nghệ thuật tăng tiến ở câu cuối: Mảnh tình – sẻ – bé – con con, làm nổi bật tâm trạng cay đắng, đáng thương của chủ thể trữ tình trước cuộc tình đầy sóng gió.
– Bằng nghệ thuật độc đáo đó, Hồ Xuân Hương đã đóng góp vào kho tàng thơ Nôm Việt Nam một câu thơ táo bạo mà chân chất, mới lạ nhưng rất gần gũi.
4. Giá trị
– Đoạn thơ có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bằng cách bộc lộ nỗi cô đơn, buồn tủi, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã nói lên số phận cay đắng của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là một xã hội bất công đã khiến bao thân phận “hồng nhan” phải lầm lỡ, đau khổ.
– Buồn với hoàn cảnh hiện tại, nữ ca sĩ luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, một tình yêu lứa đôi trọn vẹn. Khát vọng về hạnh phúc hôn nhân của Hồ Xuân Hương cũng là khát vọng của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ. Đó là nguyện vọng chính đáng và nhân văn.
3. Phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của Tự Tình 2 hay nhất:
Thân phận nhỏ nhen của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là chủ đề phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ nét tinh thần nhân đạo trong văn học. Tập thơ Tự Tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.
Người đàn bà cô đơn trong đêm khuya nghe tiếng trống báo hiệu thời gian đã qua. Canh khuya là khoảng thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Cô cảm nhận được tiếng trống báo hiệu thời khắc đang hồi hộp chờ đợi một điều gì đó. Nhưng càng mong lại càng thấy không. Tiếng trống dồn dập báo hiệu tâm trạng cô đã phấn chấn hẳn lên. Nó đại diện cho sự mong đợi, sự không chắc chắn, lo lắng và tuyệt vọng của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương miêu tả nỗi tủi nhục của người vợ mồ côi đợi chồng mà không thấy chồng đến nói một lời – mặt thất thần, mặt trơ, thân phận người phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương miêu tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
Câu thơ giấu chủ ngữ, chỉ nêu hành động, trạng thái đang diễn ra. Một chén hương dâng bạn tức là uống rượu giải sầu quên đời, mà say rồi tỉnh là uống rượu vẫn không quên sầu!
Trăng khuyết ở câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn nhưng trăng chưa tròn mà đã lặn, diễn tả cảm giác hạnh phúc chưa tròn. Trăng khuyết cũng có thể là tuổi đã qua nhưng phúc chưa tròn.
Nếu như bốn câu đầu của bài thơ thể hiện tâm trạng chờ đợi, tuyệt vọng, xót xa thì ở câu thứ năm và câu thứ sáu, Hồ Xuân Hương bất ngờ vẽ nên một hình ảnh của một nỗi niềm. Rêu cũng được chiếu sáng bởi bóng trăng nghiêng trên mặt đất. Chúng ta có thể tưởng tượng: những phiến đá đó cũng được ánh trăng soi sáng. Hóa ra nỗi cô đơn của tôi không bằng những thứ vô tri vô giác ấy! Đây không nhất thiết phải là một cảnh thực, nhưng nó có thể chỉ là một hình ảnh tinh thần. Chữ in nghiêng, rõ ràng, có ý tiếp tục dòng ngâm, tối ở câu trên. Nhưng sự vật và hình ảnh thiên nhiên ở đây lại diễn ra với một hình thức khác thường, bởi tác giả đã sử dụng những từ hành động mạnh và nhanh:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là phép đối: rêu xiên đất, đá nhô mây. Và đó không phải là hình ảnh bên ngoài mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn quậy phá, muốn thoát khỏi sự cô đơn, buồn chán. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Sự dồn nén, áp bức, hủy hoại trong tâm trạng nhà thơ chợt bùng lên, rồi chợt lắng xuống, nhường chỗ cho sự chán nản, bất lực lại là sự chấp nhận, cam chịu. Bài thơ Chán cảnh ngày xuân chất chứa nhiều thời gian và cảm xúc lâu bền. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, thời gian vẫn tiếp diễn, tình yêu và hạnh phúc chỉ được hưởng một chút. Tác giả đi rồi, hạnh phúc tình yêu chỉ được hưởng một chút. Tác giả dùng từ mảnh vỡ để nói rằng tình yêu cũng nhỏ bé như những mảnh vỡ. Một lần nữa, chia sẻ – Chẳng lẽ chia sẻ với chồng, chia sẻ với vợ? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một lời tổng kết, như một lời than thầm thầm kín của người phụ nữ có số phận hẩm hiu về tình yêu và hạnh phúc hôn nhân không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời xót xa cho số phận bất hạnh của người phụ nữ phải gánh chịu, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả trước cuộc đời thiệt thòi của con người.
Những hình ảnh trong bài thơ được nghệ thuật miêu tả hết sức ấn tượng. Nhà thơ thường đẩy đối tượng được miêu tả đến cực điểm của một trạng thái hình tượng cao. Nói về nỗi cô đơn, cằn cỗi, thùy mị của người phụ nữ.
Tác phẩm thể hiện một cách nghệ thuật sự mâu thuẫn giữa khát vọng về một cuộc hôn nhân hạnh phúc của người phụ nữ có hoàn cảnh éo le với hiện thực khắc nghiệt sống trong cô đơn, mệt mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa khát khao được sống trong hôn nhân hạnh phúc chính đáng với sự chấp nhận thân phận thiệt thòi.
Đoạn thơ thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của tác giả trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực, cam chịu của con người. trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ gợi tả một nỗi niềm, một số phận đáng thương, một khát khao ấp ủ, một tâm trạng sẻ chia của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những ước mơ hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là một bi kịch khó tránh khỏi. Như vậy, giọng thơ vừa xót xa vừa đáng thương. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể được đáp ứng trên cơ sở những điều kiện lịch sử – xã hội mới.