Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão chọn lọc siêu hay

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão chọn lọc siêu hay tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão:

Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Thân bài: 

Hình tượng con người thời Trần: 

– Tư thế hiên ngang, tung hoành dọc ngang trời đất, với tầm vóc to lớn sánh ngang đất trời

– Người tráng sĩ ấy lên đường ra đi bảo vệ tổ quốc nhưng chưa một lần gục gã trước những khó khăn, trở ngại mà vẫn luôn sáng bừng ý chí chiến đấu của một con người mang hào khí thời đại.

Hình tượng quân đội thời Trần: 

– Hình ảnh tam quân – quân đội của cả nước cùng đồng lòng đứng lên đánh tan quân thù

– Sức mạnh của quân đội nhà Trần được sánh ngang với “tì hổ”. Đó là sức mạnh dũng mạnh, lấn át của đất trời. Qua biện pháp phóng đại kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, khí thế của quân đội nhà Trần càng được khắc họa rõ nét. 

Nỗi lòng của tác giả: 

– Giọng điệu: trầm lắng, suy tư, qua đó thể hiện sự lo lắng, trăn trở

– Nợ công: Theo quan niệm của Nho giáo, đây là món nợ lớn mà người đàn ông khi sinh ra đời phải mang. Nó bao gồm hai mặt: lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng tốt cho hậu thế). Kẻ làm trai phải hoàn thành hai việc này mới được coi là trả nợ.

– Theo quan niệm của Phạm Ngũ Lão, làm trai mà không trả được nợ công là “ngại nghe chuyện Vũ Hầu”.

Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. 

2. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão chọn lọc siêu hay:

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một nội dung lớn, bao trùm và xuyên suốt nền văn học giai đoạn này với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng và bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Ra đời sau chiến thắng Mông – Nguyên của quân nhà Trần, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của khí phách Đông A, sức mạnh của quân dân thời Trần.

Đọc bài thơ, người đọc có thể nhận thấy hai câu mở đầu của bài thơ đã khắc họa rõ nét, chân thực hình ảnh quân dân trong thiên hạ. Trước hết đó là hình ảnh con người thời Trần được khắc họa trong câu thơ đầu:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Câu thơ đã vẽ nên hình ảnh người quân tử cầm trên tay ngọn giáo để bảo vệ quê hương, đất nước. “Cầm ngang ngọn giáo” là một động tác rất mạnh mẽ, nó gợi lên tư thế gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu của người lính. Ngoài ra, tác giả còn đặt hình tượng người anh hùng trong không gian “giang sơn” rộng lớn của núi rừng, của Tổ quốc và của một thời gian dài chiến đấu, từ năm này sang năm khác – “chớm thu” đã một lần nữa làm nổi bật tư thế dũng cảm, bất khuất của người anh hùng trong đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước.

Ngoài ra, hình ảnh quân Trần tràn đầy sức mạnh và khí phách cũng được tác giả Phạm Ngũ Lão tái hiện một cách sinh động và rõ nét:

 Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

“Tam quân” là ba đội quân do quân đội nhà Trần xây dựng, đó là tiền quân, trung quân và hậu quân. Ngoài ra, câu thơ với việc sử dụng hàng loạt hình ảnh so sánh và phép cường điệu khi so sánh quân đội nhà Trần với những “con hổ” – sức mạnh của hổ, nó có thể áp đảo cả sao Kim Ngưu. Bầu trời thể hiện khí phách dũng cảm, anh dũng của quân đội nhà Trần. Đó cũng chính là sức mạnh, là khí phách của tinh thần Đông A mà cả dân tộc tự hào.

Như vậy, hai câu mở đầu của bài thơ, với những hình ảnh so sánh, phóng đại, giọng điệu hào hùng đã khắc họa rõ nét tư thế hào hùng, bất khuất của các anh hùng thời Trần, cùng với sức mạnh và tầm vóc của vương triều Trần. 

Nếu hai câu đầu của bài thơ đã thể hiện hình ảnh con người và quân đội thời Trần thì ở hai câu thơ còn lại, tác giả đã tập trung làm nổi bật cảm xúc của chính mình:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Theo quan niệm của Nho giáo, danh vọng là lập công, ghi danh vào sử sách để tiếng thơm lưu truyền muôn đời, đây cũng là món nợ lớn của mỗi người. “Công danh” dường như đã trở thành lý tưởng của đàn ông trong thời phong kiến. Là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công, nhưng với ông vẫn còn mắc nợ – món nợ “công danh”. Hai chữ “nợ” trong lời thơ như khắc sâu tình cảm sâu nặng trong lòng tác giả, ông luôn tự ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình với quê hương, với đất nước.

Không dừng lại ở đó, hai câu thơ còn cho ta thấy vẻ đẹp của nhân cách và tâm hồn Phạm Ngũ Lão. Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua sự “e thẹn” của chàng với Vũ Hầu. Như chúng ta đã biết, Vũ Hầu, hay còn gọi là Gia Cát Lượng, là một nhân vật lịch sử lỗi lạc và là người có tài, là bề tôi trung thành, đã nhiều lần giúp Lưu Bị khôi phục lại nhà Hán. Nhắc đến chuyện Vũ Hầu, Phạm Ngũ Lão cảm thấy “ngại ngùng”, xấu hổ, tự ti. Sự “thẹn thùng” ấy của Phạm Ngũ Lão suy cho cùng cũng là biểu hiện của một nhân cách cao thượng, nó đánh thức ý chí làm người cuộn trào trong ông, đồng thời thể hiện lí tưởng, hoài bão của tác giả.

Như vậy, hai câu thơ khép lại bài thơ bằng một âm hưởng trầm lắng, cho người đọc thấy vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão và cách nhìn tiến bộ về chí làm người của ông.

Tóm lại, bài thơ “Thuật Hoài” với thể thơ bốn chữ cô đọng, ngôn ngữ cô đọng đã thể hiện hình ảnh, bản lĩnh và lòng dũng cảm của quân dân thời Trần. Đồng thời cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhà thơ Phạm Ngũ Lão.

3. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão ấn tượng nhất:

Nhà Trần là thời vàng son của hào khí Đông A, trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của quân và dân ta trong một thời đại đầy máu lửa và hào hùng. Tinh thần Đông A đã thể hiện tinh thần đoàn kết, quyết tâm chống giặc của dân tộc. Từ dư âm của thời đại, của khí thế Đông A vươn lên, Phạm Ngũ Lão đã sáng tác bài thơ “Tỏ lòng” đầy ý nghĩa và đặc sắc:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Giặc Nguyên sang xâm lược, chúng tàn ác về nhân nghĩa, bởi lực lượng đông đảo và sức càn quét đáng sợ. Đối phó với kẻ thù man rợ và nguy hiểm này đòi hỏi một bản lĩnh phi thường. Tại đây, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện tầm vóc và sức mạnh to lớn của quân đội nhà Trần. “Hoàng sóc giang sơn”, giữa non sông đất nước, người anh hùng cầm ngọn giáo giặc hiên ngang bảo vệ quê hương, ngọn giáo kiêu hãnh đo chiều dài đất nước, người quân tử cầm ngọn giáo hiên ngang, làm chủ trước dân tộc, đi trước thời đại. Giờ phút này, Quân tử đứng giữa vũ trụ không nhỏ bé nhưng đầy vững chãi và vĩ đại, ngọn giáo và quân tử đang thực hiện sứ mệnh mà Tổ quốc giao phó trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. “Trải qua mấy mùa thu” có nghĩa là thời gian làm nhiệm vụ đó đã lâu mà năm này qua năm khác vẫn như vậy, ý chí không hề thay đổi. 

Câu thơ thứ hai mang ý chí quyết chiến của toàn dân tộc. Sự đồng tâm hiệp lực của “tam quân” tạo nên một sức mạnh được ví như mãnh hổ, chúa sơn lâm, khí thế hơn cả núi. Nếu ở câu thơ đầu là bản lĩnh của một đấng quân tử, trách nhiệm của một cá nhân với đất nước, thì ở câu thơ thứ hai là bản lĩnh của một cộng đồng, của trăm nghìn người cao cả, là trách nhiệm của muôn dân. Qua đó, ta thấy được một tinh thần của thời đại, của những con người cùng chung ý chí đánh giặc, dẹp giặc, đem lại bình yên cho xã tắc, non sông.

“Đất nước còn nhiều thử thách, khó khăn, trở ngại trên con đường đấu tranh, còn nhiều khó khăn, dù quyết tâm, dù tự tin, tác giả vẫn có điều gì đó chưa hài lòng khi nghĩ về mình. Vì vậy, những câu thơ được thể hiện đầy tâm trạng , chứa đầy trái tim của một quý ông:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu

Tác giả mượn điển tích cổ kể về Vu Hầu – người bề tôi trung thành, quân sư tài ba nhất trong lịch sử Trung Hoa. Đó là cảm giác tủi hổ, không thể hài lòng với chính mình khi nhắc đến bậc vĩ nhân năm xưa. Đối với tác giả, không thể chấp nhận một cuộc sống không có danh dự, một sự tồn tại ngoài trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.

Bài thơ được viết bằng trái tim của một người quân tử. Chỉ với 4 câu thơ nhưng ý tứ sâu xa, khát vọng giúp đời cứu nước lớn lao. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng em ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước, để sống hết mình, cống hiến thật nhiều cho sự phát triển của Tổ quốc hôm nay và mai sau.

4. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão điểm cao nhất:

Phạm Ngũ Lão được biết đến là một võ tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Ngoài ra, ông còn rất thích đọc sách, làm thơ và được đánh giá là một võ tướng tài ba. Tác phẩm của ông hiện nay chỉ còn hai bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật Hoài) và “Viếng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc biệt, “Tự lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hào hoa, có lý tưởng và nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh tinh thần của thời đại Đông A với sức mạnh và hào khí.

Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật Hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn theo thể thơ Đường luật. Hai dòng đầu bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của quân dân thời Trần qua việc khắc họa hình ảnh người anh hùng dũng cảm, mưu trí:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Với giọng điệu khỏe khoắn, nét phác họa của họa sĩ hiện lên với tư thế kiêu hãnh, kiên cường trước khung cảnh không gian bao la, rộng lớn. Đó chính là tư thế “sóc” – giương ngang ngọn giáo để phòng thủ bờ cõi, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Người anh hùng ấy được đặt trong bối cảnh “giang sơn” rộng lớn, một thời “sớm thu” muôn thuở. Không gian bao la mang tầm vóc vũ trụ ấy và sự trải dài của thời gian như bất tử hóa, thần thánh hóa khỏi địa vị anh hùng của người anh hùng. Bản dịch thơ tuy đã tạo được âm hưởng uyển chuyển nhưng từ “múa giáo” lại không lột tả hết tư thế vững chãi, hào hoa của các tướng sĩ. Câu thơ đầu đã tái hiện vẻ đẹp của người con trai anh hùng trong tư thế sẵn sàng, oai phong giữa không gian bao la, sẵn sàng lập nên những chiến công hiển hách cho Tổ quốc. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp đó, hình ảnh của đội quân nhà Trần còn được thể hiện một cách khéo léo trong câu thơ thứ hai – “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Đoạn thơ có sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan của Phạm Ngũ Lão góp phần miêu tả vẻ đẹp và sự dũng cảm của quân đội nhà Trần. Kết hợp hai câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng cũng như tầm vóc mạnh mẽ của đội quân thời Đông A, qua đó gián tiếp thấy được niềm tự hào của tác giả.

Là một thành viên ưu tú của đội quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ trách nhiệm của mình nên đã trải lòng:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu.

Trước đây, viết về chí làm trai, bạn đọc đã từng bắt gặp những vần thơ rất quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng giữa trời đất, phải có danh với núi sông. Cũng đồng điệu với nhiều người đương thời, Phạm Ngũ Lão hết sức đề cao lý tưởng trung quân và yêu nước. Vì vậy, ông cho rằng một khi đã làm nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây là phải làm những việc có công với đất nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lí tưởng danh lợi đó thể hiện quan điểm tiến bộ và nhân cách cao thượng của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước và giúp dân. Nghĩ rằng mình chưa trả hết nợ, tác giả trăn trở: “Tu thính thuyết dân gian thuyết Vũ Hầu”. Vũ Hầu Khổng Minh là Gia Cát Lượng, người có tài và đức của nhà Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều. Ông cảm thấy “ngại” khi so sánh mình với Gia Cát Lượng. Khát vọng làm rạng danh được thể hiện rất khiêm tốn khi đặt mình cạnh vị thần mưu lược Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và quyết tâm làm trai của Phạm Ngũ Lão.

Bằng hệ thống ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của những con người thời Trần có nghị lực, có lý tưởng và nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm vang mạnh mẽ ấy để lại dư âm trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta đang sống đừng bao giờ quên nêu ra lý tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

5. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão hay nhất:

Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn và bản lĩnh phi thường, ông là một vị tướng tài ba và cũng là một người có tâm hồn văn chương. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Lời văn thể hiện tư tưởng, tình cảm của vị tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đông A sục sôi, hào hùng của thời đại:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu

Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng thời Trần với tư thế “cầm giáo” đầy kiêu hãnh và dũng cảm, thể hiện tư thế hiên ngang, hoạt bát, khác hẳn với câu dịch là “múa giáo” phô trương, trình diễn, không thể hiện được tư thế hào hùng. Đồng thời, không gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng bao la, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong không gian ấy, con người sẽ trở nên nhỏ bé, ẩn mình trong không gian vũ trụ bao la, nhưng ngược lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc vĩ đại ôm trọn cả đất nước. Tư thế ấy còn thể hiện tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ biên cương, toàn vẹn lãnh thổ. Không chỉ vậy, thời gian được nói đến ở đây đã trải qua mấy mùa thu, một khoảng thời gian dài cũng khẳng định ý chí, quyết tâm của nhân vật trữ tình. Câu thơ đầu vừa cho ta thấy tầm vóc hào hoa và lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.

Câu thơ thứ hai tái hiện sức mạnh của quân Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân”, “tì hổ”, “thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp của sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội thời Trần gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Về sức mạnh to lớn của quân đội, biện pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định bản lĩnh và sự nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. 

Dù thế nào, chúng ta cũng thấy được khí thế và sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái hiện một cách sinh động và chân thực vẻ đẹp của những con người thời Trần với sức mạnh vô song. Qua đó, ta cũng cảm nhận được khí thế vẻ vang của thời đại mà dân tộc hừng hực khí thế, quyết đánh giặc cứu nước.