Bài văn mẫu lớp 12: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 3) Bài viết số 5 lớp 12

Bạn đang xem bài viếtBài văn mẫu lớp 12: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 3) Bài viết số 5 lớp 12 tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Bài văn mẫu Lớp 12: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 3) gồm dàn ý chi tiết kèm theo 12 bài văn mẫu từ đề 1 đến đề 3 của bài viết số 5. Qua đó giúp các em tham khảo, có thêm ý tưởng, hoàn thiện bài viết số 5 của mình đạt kết quả cao.

Tuyển tập những bài văn mẫu số 5 lớp 12 được các em học sinh trình bày rất hay, hầu hết các em đều được những giải thưởng lớn như các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh hay cấp quốc gia. Hi vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài viết của mình. Sau đây mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo.

Viết bài Tập làm văn số 5 Lớp 12: Đề 1 → Đề 3

  • Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 1
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 1
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 2
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 3
  • Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 2
    • Dàn ý Bài viết số 5 lớp 12 đề 2
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 1
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 2
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 3
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 4
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 5
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 6
  • Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 3
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 1
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 2
    • Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 3

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 1

Đề 1: Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại ko đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.:

Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 1

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XIX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.

Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?

“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn… nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” không cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.

“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn).

Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là: Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:

“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”

(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu).

Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời”, chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, muốn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết rằng:

Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy

(Chế Lan Viên)

Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng?”Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ) và “Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L.Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?

Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi viễn chí”. Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí” (nghĩa là: văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái “tâm” của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.

Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại, là “lương tâm của mọi thời đại” (Balzac). “Văn phải chở đạo”, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là “văn đáng thờ”.

Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: “Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chương mà thôi”.

Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân – Thiện – Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy được thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một “thằng gù” cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà không nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào… Và ta khẳng định rằng: Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau lúc đọc” đấy chỉ là “thợ” đàn với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đường khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc

“Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước.
Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn.
Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn.
Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá”.

Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam – Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều)

Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn học là một cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu “văn chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?

Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định: “Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính (nghĩa là văn chương của cái đẹp) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và “văn chương chuyên chú ở con người” là hai mặt của một tờ giấy trắng. “Văn chương chuyên chú ở con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hẳn anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân loại này hiểu anh, hiểu cái “tâm” của anh – Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.

Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương chuyên chú ở văn chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”. Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này là tốt gỗ” và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào?

Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương” thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”.

Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái “tình” muôn thuở.

Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ “tâm” là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nhà thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 2

Từ xa xưa, văn chương đã xuất hiện và phát triển song song với lịch sử xã hội loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có biết bao nhiêu kiệt tác mà giá trị đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở thành bất hủ. Ấy thế nhưng rất nhiều thế hệ cầm bút vẫn không nguôi trăn trở về ý nghĩa và giá trị đích thực của văn chương.

Đầu thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt giữa các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn chương, tiêu biểu là hai trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Tuy nhiên, từ cuối thế kỉ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương… có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Nhận định đúng đắn này rất gần gũi với quan điểm: Mục đích tối thượng của văn học là phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.

Thế nào là loại văn chương chỉ chuyên chủ ở văn chương? Đó là loại văn chương chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật, coi nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người cầm bút chỉ lo trau chuốt cho vẻ đẹp hình thức của tác phẩm chứ không quan tâm tới nội dung tư tưởng có liên quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ đối với xã hội hay không.

Loại văn chương ấy thường chuộng hình thức xưa cũ cầu kì hoặc thiên về vẻ đẹp hào nhoáng, bóng bẩy của ngôn từ; còn nội dung thì xa rời, thoát li hiện thực… Những sáng tác như thế đều không chịu nổi thử thách nghiêm ngặt của thời gian và dư luận. Bài thơ vịnh Mùa thu sau đây của tác giả Ngô Chỉ Lan thế kỉ XV toàn là hình ảnh tượng trưng, ước lệ vay mượn từ thơ Đường, thơ Tống, như: gió vàng, bông nhạn, giống ngọc, rừng phong:

Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lồ tổ bôn trời bóng nhạn thưa,
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.

Nguyễn Gia Thiều, tác giả của Cung oán ngâm khúc đã lạm dụng điển tích, điển cố trong văn chương, sử sách Trung Hoa khiến nhiều câu thơ trở nên cầu kì, khó hiểu:

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng vương.

hoặc:

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quản thu phong đứng rũ tà huy.

Cho đến khi trào lưu Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX thì không ít thi sĩ vẫn quan niệm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ lúc đầu khẳng định mình chỉ tôn sùng Cái Đẹp:

Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp cỏ muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối hay ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng,
Của non nước, của thi văn, tư tưởng…

(Cây đàn muôn điệu)

Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những khách tình si ham mê Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao cả nhất của nghệ sĩ là đi tìm Cái Đẹp, phụng sự Cái Đẹp chứ không bận tâm đến những vấn đề thiết thực của con người và xã hội, đến trách nhiệm công dân của bản thân họ. Thi sĩ muốn được sống trên cõi tiên để xa lánh cuộc đời trần tục và coi đó là biểu hiện của thái độ thoát li thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc đang phải sống đói khổ, tủi nhục dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.

Cực đoan hơn nữa, một vài nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương đã phủ nhận nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh trong tác phẩm. Họ cho rằng sáng tác nghệ thuật không nên đề cập tới các vấn đề liên quan tới chính trị, tư tưởng, đạo đức… và có như thế mới xứng đáng được gọi là văn chương. Hoặc khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo thuật của ngôn từ mà thôi.

Sang giai đoạn cuối của trào lưu lãng mạn, các trường phái thơ bí hiểm, thơ loạn, thơ điên… là biểu hiện cụ thể của quan niệm sai lệch nêu trên. Không ít những sáng tác loại này đã bị dư luận phê bình, chỉ trích.

Còn thế nào là văn chương chuyên chú ở con người? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến số phận con người và cuộc sống, luôn hướng tới mục đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá trị của văn chương không phải chỉ ở chỗ dùng từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, điển tích điển cố cầu kì, nội dung dẫn dắt người đọc xa rời thực tế hoặc có ảo tưởng về cuộc sống trước mắt…, mà là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.

Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học.

Cách đây hơn một trăm năm, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Đạo ở đày là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền chở đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác, cứu đời, cứu người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan niệm tích cực ấy trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:

Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

Theo Bác thì văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tạo, xây dựng xã hội và văn nghệ sĩ là người chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, cống hiến, hi sinh để bào vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

Loại văn chương đáng thờ mà danh sĩ Nguyễn Văn Siêu nhắc tới chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông rút ra từ hiện thực nền văn học nước nhà nên hoàn toàn xác đáng.

Nhưng nếu văn chương chỉ chuyên chú ở con người mà coi nhẹ hình thức nghệ thuật thì liệu tác phẩm cỏ thể cuốn hút được người đọc, có thể đứng vững trước thời gian hay không? Có ý kiến cho rằng: Văn học không chỉ phải chân thực, sâu sắc, nhân đạo mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai ý kiến này có mâu thuẫn với nhau chăng?

Như trên đã nói, con người là trung tâm của cuộc sống mà văn chương lại là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không đề cập tới con người thì nó sẽ không có giá trị; Mặt khác, giá trị nội dung và nghệ thuật của văn chương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung chi phối và lựa chọn hình thức thể hiện. Do vậy mà không có nội dung thì cũng không thể có hình thức. Xét cho cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung tác phẩm như thế nào? Văn chương sáng tạo ra Cái Đẹp mà Cái Đẹp lại chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng chẳng liên quan gì đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Phản ánh con người chính là cách thức duy nhất để văn chương đến với Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.

Một tác phẩm có giá trị lâu dài nghĩa là phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng tạo ra nó phải thực sự có tài năng và tâm huyết. Cái tâm chính là tấm lòng là tình người, tình đời của người cầm bút. Cái tâm mới là gốc rễ bền vững làm nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.

Lòng thương yêu, cảm phục người nông dân yêu nước giúp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu dựng nên một tượng đài hùng tráng về người nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự đau xót chân thành trước số phận bi thảm của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn xã hội phong kiến thối nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ. Nhà văn Nam Cao lạnh lùng, tỉnh táo phân tích cội nguồn mọi điều xấu, điều ác đều xuất phát từ giai cấp thống trị đương thời. Đạo tục đen tối của xã hội đã tước đoạt quyền sống, quyền làm người và chà đạp lên danh dự, nhân phẩm. Những tác phẩm như Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt… và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là lời kêu cứu hãy bảo vệ con người, hãy chặn đứng bàn tay tội ác tha hóa con người.

Mấy trăm năm qua, người đời vẫn rung động sâu xa trước tiếng than xé ruột: Đau đớn thay phận đàn bà của thi hào Nguyễn Du, vẫn yêu thích cái hay cái đẹp của Truyện Kiều, bởi đó là tác phẩm chuyên chú ở con người. Phần tích cực, trong sáng của Thơ mới cũng được coi là tiếng nói trẻ trung, yêu đời tha thiết, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Những tác phẩm như thế chính là loại văn chương đáng thờ vậy.

Văn chương là nghệ thuật, vì vậy người viết phải chú ý đến tính nghệ thuật của văn chương, Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát được người đương thời đánh giá rất cao là: Thần Siêu, thánh Quát. Vì thế, chắc chắn nghệ thuật văn chương của hai ông phải tài tình, điêu luyện. Nhưng tài nghệ văn chương dù có tài tình, điêu luyện đến đâu thì cũng phải chuyên chú ở con người thì mới xứng đáng được đề cao và ca tụng.

Ý kiến trên đây của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật truyền thống của dân tộc ta. Chính với quan điểm văn chương chuyên chú ở con người mả ông cha ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và giàu chất nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của văn chương hiện đại.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 – Mẫu 3

Mục đích và ý nghĩa của sáng tác văn chương là gì? Giá trị thật sự của văn chương là ở đâu? Những câu hỏi ấy thường đặt ra đối với người cầm bút xưa và nay.

Vào giữa những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi về chính vấn đề đó: “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”? Thực ra, không phải tới bây giờ, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu của lí luận văn học đó mới được đặt ra và mới có những câu trả lời khác nhau của hai phái có hai quan điểm văn chương khác nhau. Từ xưa, cha ông ta đã từng suy nghĩ và phát biểu ý kiến về vấn đề này. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) – một danh sĩ đời Nguyễn, văn chương nổi tiếng như Cao Bá Quát và được nhiều người đương thời gọi là “thần Siêu, thánh Quát” – đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”

Thế nào là văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống, đến vận mệnh con người, không có trách nhiệm xã hội nào.

Biểu hiện của khuynh hướng này cũng đa dạng với những mức độ nặng nhẹ, mức độ tự giác khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trào lưu khác nhau…

Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa thì “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, tìm chữ cho kêu, đặt câu cho khéo, đối cho thật chỉnh, âm điệu thật réo rắt… Hoặc chỉ miệt mài với những trò tiểu xảo cầu kì, như dùng điển tích lắt léo, gieo vần oái oăm, nghĩ ra những kiểu thơ rắc rối kì khu. Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, thơ chỉ toàn có mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Hồ Chí Minh đã từng nhận xét loại “thơ xưa” thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp mà không chuyên chú đến cuộc đời, đến vận mệnh con người đó…

Quan điểm “nghệ thuật vì nghệ thuật” của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 là biểu hiện tự giác của loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” nói trên. Các nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam tuyên bố “văn chương là văn chương” nghĩa là văn chương không dính dáng đến cuộc sống, đến xã hội, nó chỉ biết đi tìm cái đẹp và nó chỉ là nó. Một nhà thơ lãng mạn đã viết:

Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp có muôn hình muôn vẻ.

(Li tao – Thế Lữ)

Đoạn thơ đã đặt ra một định nghĩa về người nghệ sĩ: đó là người khách tình si ham cái đẹp, chỉ có một thiên chức: đi tìm cái đẹp và phụng sự nghệ thuật, chứ không bận tâm đến một trách nhiệm xã hội nào. Có điều là trên thực tế, các cây bút lãng mạn đó không phải chỉ biết săn tìm cái đẹp và dửng dưng trước niềm vui, nỗi buồn của con người đương thời và vì thế, văn học lãng mạn 1930 – 1945 vẫn có những yếu tố tích cực, nhưng đó lại là chuyện khác.

Thái độ “chuyên chú ở văn chương” không dừng ở dó. Sau đó, nó còn được đẩy tới cực đoan, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đó là loại văn chương coi hình thức là tất cả, phủ nhận hoàn toàn nội dung của văn chương. Chẳng hạn, nó cho rằng thơ chẳng những không được nói đạo đức, chính trị, xã hội, mà cũng không được tả cảnh; tả hình và không cần nói về bất cứ cái gì, và bảo rằng như thể thơ mới “thuần túy”, mới thật là thơ! Nó khẳng định rằng thơ không cần có nghĩa, thơ chỉ là âm thanh, là hình ảnh… mà thôi. Thứ thơ ấy trở thành bí hiểm, “hũ nút”, không ai hiểu nổi.

Thế nào là loại văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết tới con người, luôn hướng tới cuộc sống và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích cho cuộc đời. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi Gorki nói: “Văn học là nhân học” thì cũng với tinh thần cơ bản là như vậy. Nhà thơ Tố Hữu cũng phát biểu xác đáng về quan điểm này: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”.

Quan niệm văn chương “chuyên chú ở con người” cũng có những biểu hiện rất đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, thì với nhà thơ mù, đạo là nhân nghĩa, là yêu nước thương dân, văn chương phải chở đạo và đâm gian tức phải là vũ khí phò chính trừ tà, cứu đời cứu nước.

Các nhà thơ, nhà văn cách mạng thì quan niệm một cách dứt khoát với sự tự giác sâu sắc rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu cải tạo xã hội và văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ đứng trong đội ngũ đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện cao nhất, triệt để nhất của quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”.

Vì sao theo Nguyễn Văn Siêu loại văn chương “đáng thờ” là loại “chuyên chú ở con người” chứ không phải loại “chuyên chú ở văn chương”? Nói văn chương “đáng thờ” là Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị, đến cái cao quý của văn chương. “Thần Siêu” đã khẳng định: chính loại văn chương “chuyên chú ở con người” mới thật sự có giá trị, mới “đáng thờ”. Có thể nói, đó là ý kiến chẳng những xác đáng về lí lẽ mà còn có căn cứ trong thực tiễn văn học. Phải chăng nếu “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì văn chương sẽ tự đánh mất mình, sẽ không còn là nó và không mấy giá trị văn chương, nghệ thuật?

Để trả lời câu hỏi này chỉ cần trở lại mệnh đề nổi tiếng dẫn ở trên của Goóc-ki: “Văn học là nhân học”. Con người là trung tâm chú ý, thể hiện của văn học, chứ đâu phải là cái ngoài văn học.

Mặt khác, trong văn chương nghệ thuật, hình thức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, hình thức – đó là hình thức của nội dung, không có nội dung thì không có hình thức. Xét đến cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung của tác phẩm một cách nghệ thuật như thế nào. Đành rằng văn chương là một bộ môn nghệ thuật, tức là nó phải tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Nhưng “cái đẹp chính là sự sống”, không có cái đẹp “thuần túy”, trừu tượng, không dính dáng đến cuộc sống con người. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ.

Vậy thì “chuyên chú ở con người” đâu phải quay lưng với cái đẹp, văn chương đi ra ngoài con đường của mình? Đâu phải văn chương vì không còn là văn chương, sẽ không có giá trị nghệ thuật? Một tác phẩm văn học có giá trị thì tất nhiên phải có giá trị nghệ thuật, tức là phải hay, phải có văn có nghệ, một nhà văn thật sự phải có tài năng. Nhưng xét đến cùng, cái chủ yếu làm nên giá trị của văn chương lại không phải là hình thức nghệ thuật. Bởi vì, như Nguyễn Du đã viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!”. Cái tâm — đó là tấm lòng, là tình người, tình đời của người cầm bút — mới là cái gốc, làm nên giá trị chân chính của văn chương. Một áng văn thật sự có giá trị thì trước hết là vì nó chứa đựng cái tâm đó của người viết. Những câu thơ Truyện Kiều có sức lay động mạnh mẽ đến thế trước hết là vì đã đọng nỗi đau nhân tình (Tố Hữu) của một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn là Nguyễn Du. Câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà! (Nguyễn Du) có tân kì, có “văn chương” gì đâu, nhưng ai bảo nó không hay, không thuộc loại “đáng thờ”?

Vậy là “chuyên chú ở văn chương” mà văn chương chưa chắc đã hay, còn “chuyên chú ở con người” thì văn chương lại thường hay. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Tâm huyết người viết là cái chủ yếu làm nên sức truyền cảm nghệ thuật, sức lay động của tác phẩm văn chương. Cái tâm thường là nguồn nuôi dưỡng, phát huy cái tài. Còn nhà văn dù tài năng đến dâu, chăm sóc văn chương công phu đến đâu, nhưng không hề quan tâm đến đồng loại, dửng dưng trước số phận con người thì cũng không thể nào sáng tác nên những áng văn có giá trị thật sự được, kể cả giá trị nghệ thuật.

Lịch sử văn học đã từng ghi lại hiện tượng dường như vô lí: có những nhà văn lớn đã tuyên bố những lời giống như phủ nhận văn chương, nhưng họ vẫn thật sự là lớn, với sự nghiệp sáng tác bất hủ; lại có không ít cây bút có tài, coi văn chương là trên hết, nhưng không có nổi những sáng tác có giá trị. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời từng tâm đắc câu thơ cổ: Lập thân tối hạ thị văn chương (lặp thân bằng văn chương là thấp kém nhất), nhưng Người vẫn trở thành nhà “văn chương” lớn.

Thực ra, những nhà văn lớn ấy không coi thường văn chương, mà chỉ vì mang nỗi đau nhân tình to lớn, sâu sắc, họ thất vọng về việc văn chương đã không có hiệu quả trực tiếp, thiết thực trong việc làm thay đổi số phận đau thương của con người.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” trên đây rất tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống của cha ông ta. Chính với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người” mà cha ông ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo với những biểu hiện đa dạng, phong phú, được nền văn học mới kế thừa và phát huy trong thời đại mới hôm nay.

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 2

Đề 2: Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?

Dàn ý Bài viết số 5 lớp 12 đề 2

I. Mở bài:

– Phong cách chính là nét độc đáo và phần đóng góp riêng của nhà văn cho đời sống văn học.

– Phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.

II. Thân bài:

– Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ làm theo một vài kiểu mẫu…

+ Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” với nhà văn Nam Cao, ông đòi hỏi ở mỗi người cầm bút một sự sáng tạo riêng cho mình, để lại cho văn học những gì là của riêng mình.

+ Nhà văn Pháp Buy-phông thì quan niệm “Phong cách chính là người”.

– Phong cách bao gồm cả phương diện nội dung và nghệ thuật:

+ Trong câu nói của Buy-phông, “Phong cách” là những nét độc đáo của riêng mỗi nhà văn thể hiện trong văn học. Đó là “những nguồn chưa ai khơi” nhưng nhà văn đó đã khơi tìm và hưởng được sự ngọt mát của nó.

+ Cần hiểu rằng, phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lý giải vấn đề về cuộc sống con người…

– Độc đáo về nội dung thể hiện ở quan niệm về cuộc sống và con người từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, cách lý giải những vấn đề về cuộc sống và con người…

Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.

– Độc đáo về nghệ thuật thể hiện ở phương thức biểu hiện, ở việc lựa chọn các thủ pháp nghệ thuật, tổ chức kết cấu, sử dụng ngôn ngữ….

– Điều thú vị khi đọc tác phẩm văn học là phát hiện được những nét độc đáo trong phong cách của mỗi nhà văn.

III. Kết bài:

– Đưa ra một nhận định đúng đắn, Buy-phông định hướng cho những nhà văn hay những người ôm mộng văn chương phải biết định hình cho mình một phong cách riêng nổi bật. Đó phải là phong cách của riêng anh để người đọc nhận ra đó là anh chứ không phải là người khác. Đến lượt mình, mỗi độc giả cần là một người đọc thông minh biết tìm tòi, suy nghĩ phát hiện nét phong cách riêng của mỗi nhà văn.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 1

L. Tolstoy từng nói: “Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học”. Quy luật đào thải của văn chương vốn đầy khó khăn và nghiệt ngã. Bởi lẽ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Cũng phát biểu về vai trò của phong cách đối với người nghệ sĩ, Buy- phông từng nói: “Phong cách chính là người”.

Phong cách chính là những nét riêng, độc đáo của nhà văn trong cách cảm nhận và tái hiện cuộc sống, được thể hiện qua các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cụ thể. Theo ý kiến của Buy- phông, qua phong cách, chúng ta sẽ nhận ra những đặc điểm của người nghệ sĩ, cả tư tưởng cũng như thế giới tình cảm của anh ta.

“Phong cách chính là người” bởi lẽ phong cách bộc lộ cách cảm nhận của người nghệ sĩ về cuộc sống. Hoài Thanh từng nói: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới trong mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng”. Vì sáng tạo chính là bản chất của văn học, anh không thể thấy người khác ăn khoai cũng vác mai đi đào. Sao chép cách nhìn, cách cảm, người nghệ sĩ sẽ tự biến mình tác phẩm của mình thành thứ sản xuất hàng loạt, biến văn học thành nông trang tập thể. Cùng viết về cái đói, thế nhưng ta thấy Nam Cao và Kim Lân đều có những cách tiếp cận khác nhau bởi “cuộc thám hiểm thực sự không nằm ở vùng đất mới mà nằm ở đôi mắt mới”. Nam Cao nhìn cái đói như thứ thuốc thử đối với phẩm giá, nhân cách con người. Còn với Kim Lân, từ cái đói, ông thấy le lói hạt mầm của sự sống, khát vọng sống đang bừng thức ở những người nông dân nghèo khổ. Và cũng từ đó, Nam Cao bộc lộ sự sắc sảo, lạnh lùng bên ngoài nhưng ấm nóng bên trong, Kim Lân lại cho thấy một tấm lòng nhân hậu, “một lòng đi về với đất với người, với thuần hậu nguyên thủy của làng quê Việt Nam”.

Phong cách còn thể hiện nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, khẳng định bản lĩnh, đồng thời tìm tòi cái mới của nhà văn để tạo nên tính hấp dẫn và sức sống cho tác phẩm. Người nghệ sĩ không thể chỉ biết theo đường quen lối cũ, đi vào lối mòn mà người khác đã khai sơn phá thạch. Trong khu rừng có nhiều lối đi, họ phải tìm “lối đi chưa có dấu chân người”. “Văn học sẽ chẳng ai giống ai và không ai muốn giống ai cả”. Không có nổi một sự tìm tòi, đổi mới, liệu mai này hậu thế sẽ còn nhớ đến anh, hay lớp bụi thời gian đã vĩnh viễn xóa nhòa tên tuổi của anh khỏi tượng đài của nền văn học. Không chỉ vì thôi thúc tự bên trong, tìm tòi, đổi mới còn là cách để chứng tỏ họ luôn theo sát dòng chảy của thời đại, không bị bỏ lại bên lề của cuộc sống. Sau năm 1975, văn học bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn với những nhân vật anh hùng được lí tưởng hóa không còn phù hợp với cuộc sống hậu chiến nhiều phức tạp và lắm rối ren. Trước sự thay đổi đó, Nguyễn Minh Châu đã trở thành “người mở đường tinh anh và tài năng” của nền văn học Việt Nam. Vẫn là sự dũng cảm nhưng điềm đạm trong lối nghĩ, lối viết, ông từng bước thay đổi đề tài cũng như cách thể hiện. Những biểu tượng đa nghĩa trong tác phẩm của ông như là một minh chứng cho một Nguyễn Minh Châu ưa suy tư và giàu tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên đầy thi vị, lãng mạn mà còn là những chiêm nghiệm, chân lý về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Qua cái nhìn từ một khoảng cách xa, chiếc thuyền hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng như bức ảnh mà nghệ sĩ Phùng chụp được. Thế nhưng, ở bên trong con thuyền ấy còn chứa đựng biết bao sự thật của cuộc sống còn lắm đắng cay, khổ cực. Chiếc thuyền ngoài xa vì thế là lời mời gọi người nghệ sĩ hãy lặn vào đáy sâu hiện thực để khám phá cuộc sống vốn đa sự, đa đoan.

“Qua giọng hát ta nhận ra người hát
Qua nét khắc ta nhận ra người thợ bạc”

Và qua phong cách, ta nhận ra người nghệ sĩ. Đúng như M. Proust từng nói: “Thế giới được tạo lập không chỉ một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là lại một lần thế giới được tạo lập”.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 2

Có một nghệ sĩ đã từng nói: “Làm thơ mà không có giọng riêng, chả khác này nhảy xuống dòng sông cuồn cuộn chảy mà không biết bơi”. Phong cách người nghệ sĩ là vô cùng quan trọng. Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Phong cách của một nghệ sĩ sẽ thể hiện hết thảy con người anh ta và là dấu ấn để độc giả nhận ra sự hiện diện của nghệ sĩ.

Phong cách nghệ thuật của một nhà văn là tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, chưa từng có về cuộc sống về con người thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và phương thức, phương tiện đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Cái nhìn và phương thức độc đáo phải được lập đi lập lại, ổn định trong phong cách nghệ thuật qua các tác phẩm. Phong cách nghệ thuật có thể được biểu hiện qua 3 cái nhìn, cách cảm thụ đầy tính khám phá, qua giọng điệu, cách lựa chọn, xử lý đề tài, xây dựng chủ đề, xây dựng đối tượng miêu tả.

Hoài Thanh từng nói “Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, một con người”. Bởi khi làm thơ, người nghệ sĩ gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình trong từng câu thơ, cũng chính là gửi gắm tâm hồn mình mình mình vào bài thơ. Thơ ca là công cụ để bộc lộ một con người. Phong cách nghệ thuật mà người nghệ sĩ bộc lộ trong tác phẩm của mình mình không đâu khác chính là tâm hồn mình, là con người mình. Khi ta đọc một tác phẩm văn học tức là gặp gỡ một tâm hồn người. Khi ta nhận ra một phong cách, tao đang nhận ra một con người. Phong cách chính là người.

Đó là lý giải cho việc tại sao người dễ dàng nhận ra Xuân Quỳnh thông qua “Sóng” và dễ dàng nhận ra Nguyễn Tuân thông qua người lái đò sông Đà. Đọc “Sóng”, người đọc thấy ở đó toát lên sự nữ tính, sự khát khao hạnh phúc đời thường, một vẻ đẹp truyền thống kết hợp với hiện đại. Đó là phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đọc những đoạn văn dữ dội sóng nước Đà giang trong “Người lái đò sông Đà”, người đọc cũng nhận ra cái tài hoa uyên bác trong văn Nguyễn Tuân với một đôi mắt luôn kiếm tìm những vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và bậc nhất. Điều này hoàn toàn dễ phân biệt với sự tài hoa lịch lãm, trữ tình đằm thắm trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Vậy nên mới nói, điều quan trọng đối với nhà văn là giọng nói của riêng mình. Phong cách chính là yếu tố đầu tiên và duy nhất để độc giả nhớ đến nghệ sĩ, là thứ mà người nghệ sĩ ghi dấu trong lòng độc giả. Phong cách cũng chính là hóa thân của tâm hồn nhà văn, là bộc lộ một phần con người của người nghệ sĩ. Có thể nói tất cả phong cách của người nghệ sĩ đều xuất phát từ chính con người nghệ sĩ. Một Xuân Diệu với tình yêu mãnh liệt luôn thường trực, với khát khao cháy bỏng về tuổi trẻ và tình yêu mới có được những câu thơ: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Một Quang Dũng lãng mạn hào hoa mới viết được những câu thơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” ngay bên cạnh những câu thơ của khói bom, bệnh tật. Phong cách chính là con người của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có tâm hồn ra sao, trên trang văn, trang thơ đều biểu hiện như vậy.

Văn cũng không đâu khác là người. Bởi vậy, văn chương vô cùng quan trọng phong cách. “Khi một nhà văn xuất hiện, điều mà cần hỏi anh ta đó là anh ta đã đem đến một cái gì mới mẻ cho cuộc sống”. (Macxen Prut). Từ đây, rút ra bài học cho người sáng tạo đó là cần đưa phong cách riêng của mình vào tác phẩm. Và người đọc khi thưởng thức một tác phẩm văn học cũng cần chú trọng phong cách thể hiện qua tác phẩm ấy.

“Phong cách chính là người”. Làm người cần có phong cách mà làm nghệ sĩ càng cần phải có phong cách. Nếu không có phong cách, nghệ sĩ chỉ như đom đóm sáng lên rồi lại vụt tắt.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 3

Con người sinh ra không phải ai cũng giống nhau, mỗi người đều có những khác biệt tạo nên cái riêng của mình cái riêng đó thường được gọi là phong cách. Như nhà văn Pháp nổi tiếng Buy-phông có viết: “phong cách chính là người”

Đúng vậy! Phong cách là người, phong cách của một người phản ánh chính con người đó. Vậy chúng ta hiểu phong cách là gì? Theo nghĩa hẹp, phong cách là là cách thức riêng của một tác giả, một nghệ sĩ thể hiện trong sáng tạo một tác phẩm, công trình văn hóa, nghệ thuật. Đó là những biểu hiện mang tính chất hệ thống về tư tưởng nghệ thuật, các đặc trưng mang tính thẩm mỹ, ổn định về nội dung và hình thức thể hiện tạo nên giá trị độc đáo của tác giả. Theo nghĩa rộng, Phong cách là phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc một lớp người được thể hiện trong tất cả hoạt động sống của chủ thể, tạo nên những giá trị riêng, những đặc trưng của họ. Phong cách được hiểu như một nguyên tắc điều chỉnh hành vi con người và trở thành thói quen, nề nếp ổn định khi suy nghĩ, diễn đạt và hoạt động thực tế. Đối với mỗi người thì phong cách của họ gần với đặc điểm truyền thống, thói quen, hoàn cảnh sống quy định, đồng thời mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Mỗi người, từ bé thơ lớn lên đã có phong cách của mình. Phong cách nào cũng có sự tự tin của mình.

Trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta được nghe rất nhiều về phong cách, nào là phong cách thời trang, phong cách sống, phong cách nghệ thuật,… Nói về trang phục, chúng ta cũng thường nghe thấy rất nhiều người nghe đến việc nhận xét phong cách ăn mặc của một người chẳng hạn như phong cách baby doll, phong cách bánh bèo,… Theo những lời nhận xét đó ta có thể thấy, mỗi người hoặc mỗi lớp người đều chọn cho mình một phong cách ăn mặc riêng mà họ cảm thấy yêu thích. Có người chọn phong cách sexy gợi cảm, có người lại thích phong cách dễ thương, có người lại thích phong cách giản dị, trong sáng… Không chỉ trong trang phục thường ngày ta còn thường bắt gặp phong cách của những ca sĩ. Phong cách của ca sĩ được thể hiện trong những bài hát của họ. Người ca sĩ hát nhạc ballad trữ tình sẽ khác với người hát nhạc rock hay nhạc cách mạng… Mỗi người ca sĩ ngoài gu ăn mặc, người ta sẽ nhớ đến họ theo một dòng nhạc nào đó. Mà chính những điều đó làm nên phong cách riêng của một người ca sĩ.

Trong văn học cũng vậy, phong cách phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lý giải vấn đề về cuộc sống con người… Có thể thấy rõ điều này ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự tài hoa của những nhà Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả thơ, uống trà, ngâm vịnh… Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất… Nam Cao lại khác. Trước Cách mạng, ông đau đáu với đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam quằn quại trong nỗi đau vì bị “áo cơm ghì sát đất”… Về nghệ thuật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện đa dạng ở nhiều phương diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu, tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt ngào để thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại rất dễ “bị” nhận ra bởi lối kể chuyện đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn rất tài tình… Mỗi nhà văn lại có những ý tưởng độc đáo khác nhau trong cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thích thú là việc phát hiện ra những nét đặc sắc về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà thơ có tài năng thực sự mới có thể định hình phong cách riêng của mình. Và giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối quan hệ chặt chẽ tới bản thân cá tính mỗi nhà văn. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một thực thể bộc lộ những quan niệm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn có vẻ khách quan, hờ hững với nhân vật. Ông gọi họ là “y”, là “thị”, miêu tả họ với những hình hài xấu xí, thậm chí là ghê rợn (đặc biệt là những người nông dân). Nhưng đằng sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, khinh thị ấy là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình thương đến nhói buốt của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng có dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn. Nhắc đến Nam Cao, những người bạn văn nhớ đến một dáng vẻ trầm lặng, ít nói, nhưng thực chất, ẩn đằng sau dáng vẻ phẳng lặng, im ắng ấy là một tinh thần sôi nổi, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu thế này: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.

Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực, khía cạnh đời sống con người đều nói lên một điều rằng, phong cách chính là con người. Phong cách nó phản ánh một con người, nó tạo nên sự khác biệt giữa con người với nhau, tạo nên sự đa dạng của cuộc sống. Điều đó một lần nữa khẳng định ý kiến của nhà văn Pháp Buy – phông là đúng và có ý nghĩa.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 4

Mỗi một con người khi đến với thế giới này đều như một trang giấy trắng đẹp trong ngần và vô cùng thanh khiết, dẫu vẫn biết rằng không phải ai cũng có cùng một xuất phát điểm công bằng, bởi đó là sự phân cấp xã hội khó có thể xóa nhòa. Thế nhưng trong giai đoạn hoàn thiện bản thân để trưởng thành và bước chân vào một thế giới nhiều màu sắc, tôi chắc rằng mỗi con người đều có ý thức xác định cho mình một phong cách riêng bằng thứ mực nước và bút vẽ của bản thân để hóa mình thành một mảnh ghép khác biệt và có một vị trí nhất định trong cuộc đời. Bởi không ai muốn sống nhạt nhòa, ai cũng mang trong mình một cái tôi cá nhân với khao khát được bùng cháy, được khai phá. Nói về phương diện phong cách của con người Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng đã có một phát biểu vừa trừu tượng lại vừa rõ ràng như một định nghĩa về nhân loại: “Phong cách chính là người”.

Vậy phong cách là gì? Một định nghĩa chung được đưa ra rằng phong cách chính là tổng hòa những nét riêng trong cung cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử để tạo nên bản ngã của một con người hoặc một nhóm người nhất định có tính chất phân biệt với những cá thể khác. Và con người khi làm việc hoặc sinh sống họ lại có nhiều những khái niệm phong cách khác nhau, ví dụ phổ biến và hay được nhắc đến là phong cách ăn mặc, phong cách trang điểm, phong cách sống,… đôi lúc người ta vẫn thay cách gọi trịnh trọng “phong cách” này thành một từ có vẻ bình dân và dễ hiểu hơn ấy là “lối” như lối sống, lối ăn mặc, lối trang điểm, lối nói,… Trong văn học nghệ thuật người nghệ sĩ phải được khẳng định thông qua các tác phẩm với phong cách nghệ thuật, phong cách ngôn từ, phong cách sáng tác, phong cách diễn đạt,… Nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ có thể xuất hiện từ phong cách và dường như chính phong cách đã làm nên cuộc sống, làm cho cuộc sống trở nên đa màu đa vẻ và có thể phân biệt. Vậy nên câu nói của Buy-phông “Phong cách chính là người” là một quan niệm đúng, một con người sẽ bao gồm nhiều phong cách trong các lĩnh vực khác nhau, kết hợp với nhau tạo nên cái tôi cá nhân của con người, và ngược lại chính phong cách đã đóng góp từng viên gạch nhỏ để dựng lên một cá thể hoàn chỉnh trong xã hội. Làm người ai cũng có cho mình một phong cách, quan trọng là họ có nắm bắt và nhận ra hay không thôi.

Trước hết bàn về phong cách của những con người bình thường trong xã hội, chúng ta có nên sống mà không cần xây dựng cho mình một phong cách hay không? Bởi có đôi lúc tôi vẫn nghe được những ý kiến rằng phong cách là cái gì đó quá xa rời thực tế, người bình thường thì nên bình bình đạm đạm mà sống, cớ sao phải đua đòi vẽ vời phong cách này nọ, màu mè và dở hơi. Thế nhưng đó là quan điểm quá sai lầm, sai lầm thứ nhất là đa số chúng ta vẫn chưa hiểu được định nghĩa phong cách, họ vẫn lầm tưởng phong cách chỉ dành cho những con người nổi tiếng, người làm nghệ thuật với những cụm từ nhan nhản báo đài ví như “phong cách sexy”, “phong cách thiếu nữ”, “phong cách thời trang”,… hoặc trong giới văn chương, học sinh vẫn quen thuộc nhất với cụm từ “phong cách nghệ thuật”. Điều đó vô hình chung làm chúng ta trở nên ra rời chính việc khẳng định cái tôi cá nhân của bản thân thông qua việc gây dựng phong cách mà thường đi lệch hướng bằng những hành động có vẻ như là khẳng định bản thân nhưng thực tế là ấu trĩ và hài hước. Mỗi chúng ta cần biết rằng, phong cách cá nhân là điều cơ bản và vô cùng quan trọng nó làm nên vẻ đẹp, cái duyên dáng thu hút của mỗi chúng ta, nếu thiếu phong cách bạn sẽ trở nên nhạt nhòa, thiếu hấp dẫn. Và quan trọng nhất là một cuộc sống thiếu phong cách sẽ khiến chúng ta chán nản, không thú vị, bởi trên hết có một phong cách riêng chính là đang thỏa mãn cái tôi của bạn một cách âm thầm, khiến bạn cảm thấy hài lòng vì chí ít cũng được khẳng định bản thân theo một phương diện nào đó.

Tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy tầm quan trọng của phong cách trong một vài lĩnh vực, tiêu biểu nhất và quen thuộc nhất có lẽ chính là văn chương. Người ta thường nhắc đến tác phẩm như là cả một gia tài tâm huyết của người nghệ sĩ, trong đó nổi lên hai mặt là nội dung và nghệ thuật, về nội dung thì muôn kiểu thế nhưng vẫn có nhiều nhà văn cùng cày cấy trên một chủ đề, một lĩnh vực. Tuy nhiên có một cái hay là dù chung đề tài nhưng mỗi một tác giả lại vẫn ghi dấu trong lòng người đọc những ấn tượng nhất định, tất cả đều nhờ vào phong cách nghệ thuật và cách nhìn nhận chủ đề mà họ đã tự tạo tập cho mình trong quá trình sáng tác. Tôi lấy ví dụ như Thạch Lam có phong cách viết truyện không cần cốt truyện, độc tác phẩm của ông người ta luôn thấy một cái gì đó lãng mạn, man mác buồn và đặc biệt Thạch Lam thích viết về những cái gì nhỏ nhặt, tầm thường tuy nhiên lại mang những ý nghĩa lớn. Mà theo như tác giả nói: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp chỉnh ở chẽ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Hoặc nói đến Nguyễn Công Hoan chẳng hạn, ông viết về đề tài những con người khốn khổ dưới chế độ thực dân – nửa phong kiến bằng một giọng văn hóm hỉnh, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi niềm đau xót cho số phận những con người dưới đáy xã hội. Khác với Nguyễn Công Hoan thì Vũ Trọng Phụng cho người ta thấy tiếng trào phúng một cách gay gắt hơn rất nhiều, mà đôi lúc người ta còn cảm thấy hơi sốc với lối văn quá đỗi “trần truồng”. Còn Nam Cao là giọng văn bình dị, cảm động, và ẩn chứa nhiều triết lý về cuộc sống cũng như cung cách làm văn,… Trong thi ca Việt Nam hiện đại, người ta sẽ thấy bật lên một Quang Dũng tài hoa, lãng mạn, một Tố Hữu ân tình, lý tưởng cách mạng, đất nước và nhân dân sâu sắc, một Nguyễn Khoa Điềm với phong cách triết luận trữ tình sâu sắc bằng chất liệu văn hóa dân gian,…. Nói chung rằng nhà văn, nhà thơ đều phải có phong cách cho riêng mình, một phong cách thể hiện lối suy nghĩ, quan niệm sống, mà chân dung tâm hồn để thu hút độc giả và dựng lên cho mình một vị trí trong giới nghệ thuật, nếu không rõ ràng rằng họ sẽ bị chìm nghỉm trong một loạt các cây bút tài năng khác.

Đó là là văn nhân, thi sĩ, bây giờ tôi sẽ nói đến những con người làm trong lĩnh vực nghệ thuật khác như ca sĩ, diễn viên, người mẫu. Các bạn, đặc biệt là giới trẻ như chúng ta sẽ chẳng bao giờ lạ lẫm với nền công nghiệp giải trí của Hàn Quốc, hàng năm hàng trăm nhóm nhạc lớn nhỏ ra đời thế nhưng chỉ một số ít trong đó là có thể bật lên trở thành ngôi sao thế hệ mới. Vậy họ đã làm gì để trở nên nổi tiếng? Chỉ có một cách duy nhất ấy là khẳng định phong cách âm nhạc và phong cách của thần tượng, nhạc có thể chọn pop ballad, dance, rock,… khí chất thần tượng có thể là trẻ trung năng động, ngây thơ dễ thương, mạnh mẽ nam tính hoặc ấm áp như chàng trai nhà bên,… Hai yếu tố tổng hòa lại sẽ gây dựng nên một ấn tượng trong lòng khán giả để khi nhắc về một ca sĩ, nhóm nhạc nào đó họ có thể dễ dàng nhận định và phân biệt, điều này vô cùng có lợi cho việc khẳng định tên tuổi.

Như vậy các bạn có thể thấy rõ ràng được tầm quan trọng trọng việc tạo dựng phong cách của nghệ sĩ, và những ví dụ trên rõ ràng đã chứng minh được ý phong cách làm nên con người của Buy-phông, thậm chí trở thành một biểu tượng của người đó khi nhắc đến. Vậy trong cuộc sống các bạn có muốn được chú ý, được nhắc đến, được khẳng định cái tôi cá nhân của mình không? Tôi nghĩ rằng ít nhiều cũng có, tuy nhiên chúng ta phần lớn đều không phải nghệ sĩ nên chúng ta sẽ không tạo dựng phong cách thông qua tác phẩm mà thay vào đó là thông qua cuộc sống thường ngày. Hoặc nếu muốn bạn cũng có thể coi cuộc đời mình là một vở kịch vĩ đại và mỗi chúng ta sẽ là một nghệ sĩ với phong cách sáng tác riêng biệt (cười). Chúng ta sẽ xây dựng phong cách sống của mình thông qua việc thể hiện bản sắc cá nhân trong việc giao tiếp ứng xử hằng ngày với mọi người xung quanh, bạn có thể thẳng thắn bộc trực, cũng có thể có lối nói ý nhị; trong phong cách làm việc ví dụ như nhanh nhẹn tháo vát, cẩn trọng chắc chắn, độc lập kiên cường,…; trong lối ăn mặc trang điểm có thể là phong cách dịu dàng trang nhã, năng động trẻ trung, hoặc phong cách hoài cổ, kín đáo,…; trong lối sống bạn có thể chọn cho mình một cuộc sống yên tĩnh, bình lặng hoặc một cuộc sống sôi nổi, rộn ràng,… Và dĩ nhiên phong cách sống của một con người không chỉ có bấy nhiêu bình diện mà còn vô số những khía cạnh khác ví như phong cách ẩm thực, quan điểm trong các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, quan điểm thẩm mỹ, thường thức, quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan, quan niệm về tình cảm,… Tất cả nhiêu đó sẽ tổng hòa và làm nên phong cách sống của một con người, như một vở kịch đặc sắc, như một bức họa nhiều màu, như một bài hát lắm giai điệu, như một dấu vân tay, như một loại đặc tính làm nên thương hiệu để nhận định từng cá thể trong xã hội.

Nếu đọc qua phân tích của tôi về phong cách con người ở trên có thể các bạn thấy mình cũng có phong cách riêng đúng không, thế nhưng các bạn không hiểu tại sao bản thân mình vẫn vô cùng mờ nhạt trong xã hội, bạn vẫn luôn tự hỏi tại sao cùng là học sinh nhưng có bạn được chú ý, có bạn thậm chí giáo viên không nhớ mặt gọi tên. Điều đó thực tế khá phổ biến trong xã hội, bởi bộ não con người thường chỉ nhớ những cái gì gây cho họ một ấn tượng sâu sắc, ví dụ như ngoại hình, năng lực, và những quan điểm nổi bật của một ai đó. Thế nên bạn cũng không nên quá tự ti về bản thân mình mà thay vào đó bạn hãy cố gắng cải thiện và tìm cách nhấn mạnh cũng như đánh dấu phong cách cá nhân ở một vài khía cạnh để cải thiện nhất, ví dụ như tư tưởng, phong cách làm việc, gu thời trang,… Và tuyệt nhiên bạn không nên cố bắt chước một ai đó, bạn có thể tham khảo nhưng không thể chép y nguyên phong cách của người khác vào cuộc sống của mình, bởi vì bạn sẽ lập tức trở thành một bản sao lỗi ngay. Tôi nói điều đó bởi vì phong cách không pahir tự nhiên có, mà nó nằm ở tâm hồn và nội hàm của mỗi con người, mỗi người sẽ có một cách khác nhau, thứ của người khác chưa chắc đã hợp với bạn và ngược lại. Vì thế tốt hơn hết chúng ta hãy cố gắng dùng màu sơn và cây cọ của mình để tự tô vẽ nên một phong cách riêng biệt, không nhầm lẫn, không nhạt nhòa và có độ nhận diện cao bạn nhé.

Nói tóm lại quan điểm của Buy-phông “Phong cách chính là con người” đúng trong mọi trường hợp và trong mọi lĩnh vực chứ không chỉ riêng gì giới văn nhân nghệ sĩ. Chúng ta sống trên đời dù có muốn một cuộc sống bình đạm qua ngày thì chí ít cũng phải xây dựng cho mình một phong cách sống đẹp, để lại cho người xung quanh những ấn tượng tốt. Bởi ai trong chúng ta sinh ra trên đời đều là một sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hóa, thế nên chúng ta phải sống thật sự chứ không nên chỉ tồn tại một cách vô nghĩa nhạt nhòa.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 5

Nhận định về con người nhà văn Pháp nổi tiếng Buy – phông có nhận xét rằng: “Phong cách chính là người”. Ta có thể hiểu câu nói trên như thế nào? Nói đến con người người ta nghĩ ngay đến những nhận thức xã hội, đó là những thứ khiến cho con người khác biệt với con vật. Một trong những thứ khiến cho con người khác con vật chính là phong cách.

Trước hết ta cần phải hiểu phong cách là gì? Hiểu một cách nôm na phong chính là tác phong, vẻ bề ngoài của con người, cách là cách thức con người thể hiện ra ngoài và tạo nên một nét riêng biệt của bản thân mình. Vậy phong cách có nghĩa là chính là nét riêng biệt của mỗi người, nó thể hiện được tính cách, bản chất, sở thích của con người.

Trong cuộc sống chúng ta, từ phong cách được thể hiện rất nhiều. Nói về trang phục, chúng ta cũng thường nghe thấy rất nhiều người nói rằng: “Chị kia thật phong cách”, “Anh ấy chạy theo phong cách thời trang Hàn Quốc”, “Em ấy có phong cách dễ thương”… Theo những lời nhận xét đó ta có thể thấy, mỗi người hoặc mỗi lớp người đều chọn cho mình một phong cách ăn mặc riêng mà họ cảm thấy yêu thích. Có người chọn phong cách sexy gợi cảm, có người lại thích phong cách dễ thương, có người lại thích phong cách giản dị, trong sáng…

Không chỉ trong trang phục thường ngày ta còn thường bắt gặp phong cách của những ca sĩ. Phong cách của ca sĩ được thể hiện trong những bài hát của họ. Người ca sĩ hát nhạc ballad trữ tình sẽ khác với người hát nhạc rock hay nhạc cách mạng… Mỗi người ca sĩ ngoài gu ăn mặc, người ta sẽ nhớ đến họ theo một dòng nhạc nào đó. Mà chính những điều đó làm nên phong cách riêng của một người ca sĩ.

Trong văn chương cũng vậy, nếu Xuân Diệu xuất hiện với phong cách nghệ thuật nhìn đời bằng con mắt tươi xanh biếc rờn, thơ Xuân Diệu lúc nào cũng chứa chan niềm yêu thương cuộc sống, yêu đến cuồng nhiệt, yêu đến say mê thì Nguyễn Khoa Điềm lại nghiêng về phong cách thơ trữ tình chính luận, Xuân Quỳnh góp vào nền thơ ca Việt Nam một phong cách thơ tha thiết, giàu cảm xúc.

Tất cả những phong cách trong những lĩnh vực, khía cạnh đời sống con người đều nói lên một điều rằng, phong cách chính là con người. Nói cách khác chỉ con người mới có phong cách, đó là điểm khác biệt giữa con người và loài vật. Như vậy, ta có thể khẳng định rằng lời nhận xét của nhà văn người Pháp Buy-phông hoàn toàn đúng đắn và chính xác.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 – Mẫu 6

“Phong cách (…) cũng như màu sắc đối với người họa sĩ, không phải là một vấn đề về kỹ thuật mà là về cách nhìn. Nó là một phát lộ, vốn sẽ không thể có được bằng những phương tiện trực tiếp và hữu thức, về sự khác biệt về chất có trong cách mà thế giới hiện ra với mỗi chúng ta, sự khác biệt mà nếu không có nghệ thuật thì sẽ mãi là bí mật vĩnh hằng của mỗi con người”

Nói cách khác, phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.

Mỗi người sinh ra và lớn lên đều có riêng trong mình một khí chất, năng lực và kinh nghiệm để có thể tiếp thu những cái tốt đẹp và loại trừ những cái xấu. Quá trình đó dần hình thành trong mỗi chúng ta một vốn cá tính đặc biệt mà ta hay gọi là phong cách. Xét trên bình diện này, Buy-phông – một nhà văn nổi tiếng của Pháp từng nói: “Phong cách chính là người”. Quả thật trong cùng một hoàn cảnh nhưng phong cách của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, mà nó chính là bản thân người mang phong cách đó. Cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm về câu nói của Buy-phông để mỗi chúng ta có thêm những hiểu biết và dần định hình trong mình một phong cách riêng. Trong cuộc sống, người ta thường định hình phong cách theo hai nghĩa. Một là, phong cách nghệ thuật. Đó là phong cách của một nhà văn, nhà thơ, nhà kiến trúc… hoặc phong cách của một thời đại nào đó.

Hai là, tác phong, tính cách của một người hay một lớp người nào đó trong xã hội được hình thành một cách tương đối ổn định, làm nên phong cách riêng của một người hay một lớp người đó.

Phong cách tuy đa dạng như vậy nhưng nhìn chung khi nhắc đến phong cách ta vẫn thường nhắc đến dấu ấn cá nhân của sự vật. Ngoài ra một điểm chung của bất kỳ loại phong cách nào là cũng đều chịu tác động mạnh mẽ sâu sắc của môi trường sống. Đó là những tác động của truyền thống văn hoá, đạo đức, tâm lý nghề nghiệp. Nhìn từ bình diện văn học, phong cách cũng đa dạng nhưng không kém phần sâu sắc.

Buy-phông đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”. Trong văn học, phong cách là yếu tố cấu thành tác phẩm không thể thiếu. Độc giả cũng như mọi nhà lý luận văn học mỗi khi nhìn nhận một tác phẩm, người ta thường hay chú ý đến hai phương diện quan trọng của phong cách văn học là: nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, phong cách là dấu ấn thể hiện cách nhìn nhận con người và cuộc sống, cách lý giải cuộc sống và con người… Về nghệ thuật, phong cách là cách lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật, kết cấu ngôn từ, sử dụng ngôn ngữ… Một tác phẩm hay chỉ được đánh giá khi tạo ra được dấu ấn riêng, mang lại cho người đọc những lay chuyển xúc cảm nhẹ nhàng mà tinh tế. Chính vì vậy, dù trên bất cứ bất cứ bình diện nào, khi đánh giá tác phẩm hay con người, phong cách cũng vừa là tiêu chí quan trọng, vừa là nơi thể hiện cái tính cách cũng như tâm hồn trong tác giả. Xin một lấy một góc nhỏ của nền văn học Việt Nam để chứng minh và làm rõ hơn khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”.

Nhắc đến văn học Việt Nam, nhắc đến phong cách con người tôi dần mường tượng ra sợi dây liên kết giữa chúng. Nguyễn Đăng Mạnh trong “Nhà văn, tư tưởng và phong cách” đã gắn phong cách với cá tính nhà văn khi ông xác định: “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách, ông lại một lần nữa coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ. Nguyên Ngọc là cây bút sử thi – lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ… Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”.

Phong cách ở mỗi bình diện đều đa dạng và sâu sắc. Văn học chỉ là một trong số những bình diện mà tôi muốn vay mượn nhằm đánh giá đúng và chính xác khi nhìn nhận con người. Tôi dần nhận ra câu nói của Buy-phông hết sức chập chờn. Bởi vì như tôi đã nói các định ngữ đã để định nghĩa chập chờn. Như tôi đã nói về một số phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính… có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giá trị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác cũng không rõ ràng. Đó chính là sự chập chờn trong câu nói “Phong cách chính là người” của Buy-phông: Nó tạo cho những người đọc cho ta nhiều cách nhìn nhận riêng. Đó là sự tinh tế và óc sáng tạo khi nhìn nhận vấn đề của Buy-phông.

Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.

Chính từ đó, mỗi học sinh chúng ta, nhìn nhận từ câu nói của Buy-phông, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tập riêng cho mình thói quen nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng, tinh tế. Đồng thời cần không ngừng trau dồi vốn từ và sử dụng nó một cách linh hoạt. Đó chính là điều kiện dần cần và đủ để ta đã hình thành trong mình một phong cách nhỏ, nơi thể hiện cái tôi cá nhân của ta trong cuộc sống.

“Phong cách chính là người” – Buy-phông đã cho ta một nhận định sâu sắc, một bài học khi ta bước vào cuộc sống. Riêng tôi, nỗ lực để tạo riêng cho mình một phong cách, một cá tính sẽ là động lực giúp tôi vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống!

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 – Đề 3

Đề 3: Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e:” Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 1

Giá trị của một tác phẩm văn học là lí do tồn tại của tác phẩm ấy đồng thời là cơ sở để khẳng định tài năng và tâm huyết của người sáng tạo ra nó. Những tiêu chuẩn nào thường được đưa ra để đánh giá giá trị của tác phẩm? Theo quan niệm của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e thì “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Vậy cần phải hiểu ý kiến này như thế nào?

Văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của tác giả. Khi đến với độc giả, ở từng thời kì khác nhau lại có những cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng có thể nói, tất cả đều tựu trung ở những giá trị mà tác phẩm đó mang lại.

Đi vào tìm hiểu ý kiến của La Bơ-ruy-e trước hết cần phải hiểu thế nào là một cuốn sách hay? Đây là một khái niệm cụ thể nhưng cũng được dùng với ý nghĩa chỉ chung cho tất cả các sáng tác văn học nghệ thuật. Có người lấy sự sáng tạo của người nghệ sĩ, lấy sự “phát minh về hình thức và khám phá về nội dung” làm tiêu chí để đánh giá một tác phẩm hay, hoàn thiện; Có người lại lấy nội dung thể hiện cuộc sống, con người trong tác phẩm làm cơ sở xem xét tác phẩm đó như thế nào, có “đáng thờ” hay không?… Còn người nghệ sĩ thực sự, theo họ, phải là người biết đồng cảm với những khổ đau của con người, “tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; bênh vực những con người không còn được ai bênh vực” (Nguyễn Minh Châu), là người “không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng” (Hoài Thanh)… Cũng như sự gặp gỡ trong tử tưởng và quan niệm, La Bơ-ruy-e cho rằng khi tác phẩm “nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm” thì đó là tác phẩm thực sự, do một nghệ sĩ viết ra. Thực ra cũng không hẳn là “không cần tìm một nguyên tắc nào” khác vì điều mà La Bơ-ruy-e nêu ra xét đến cùng cũng chính là những tiêu chuẩn mang tính hệ quả từ những nguyên tắc đánh giá về văn chương. Mọi tác phẩm đã được coi là có giá trị thì cuối cùng đều hướng tới đích lớn nhất là con người. Đó là việc nâng cao tư tưởng, tình cảm, tức đánh giá tác phẩm dựa vào giá trị nhận thức, thẩm mĩ và giáo dục mà nó mang lại.

Có thể nói, quan niệm của La Bơ-ruy-e là quan niệm đúng đắn được đúc kết từ thực tế sáng tác. Điều hiển nhiên khi một tác phẩm nghệ thuật đạt được đến những giá trị như La Bơ-ruy-e nói thì nó thành công, thế có nghĩa là nó là một tác phẩm, một cuốn sách hay. Và tất nhiên người sáng tạo ra một tác phẩm như thế phải là người có tài năng và tâm huyết, nghĩa là một nghệ sĩ đích thực với đúng nghĩa của nó.

“Tác phẩm nâng cao tinh thần của ta lên” vì thông qua chức năng nhận thức, văn học cung cấp cho con người hiểu biết về thế giới vật chất và tinh thần. Nắm bắt được quy luật cuộc sống, con người sẽ có thể chủ động hơn trong mọi trường hợp. Thế giới tinh thần không chỉ được nâng cao mà còn được bồi dưỡng và làm cho ngày càng trở nên phong phú.

Bên cạnh đó, thông qua bản chất thẩm mĩ của thế giới thể hiện trong tác phẩm mà văn học giáo dục, bồi dưỡng tình cảm của con người cũng như phát triển những phẩm chất thẩm mĩ tốt đẹp của họ, làm cho họ ngày càng hoàn thiện hơn. “Tham gia vào hoạt động văn chương cho dù là sáng tác hay thưởng thức, người ta đều được “thanh lọc”, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn. Trong thế giới xô bồ ồn ã hiện nay, khi con người ta luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội thì thi ca, văn chương lại càng cần thiết” (Nguyễn Văn Hạnh – Ý nghĩa của văn chương).

Văn học dân gian Việt Nam từ xưa đến nay được biết đến như một kho tàng văn hóa của dân tộc, một đời sống tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Ngay từ thời xưa ông ta đã dùng ca dao, dân ca, tục ngữ một cách phổ biến với tư cách là những kinh nghiệm dân gian trong lao động sản xuất, trong đối nhân xử thế, những lời than thân, những tình cảm yêu thương tình nghĩa. Chúng không chỉ góp phần nâng cao tinh thần mà còn gợi và bồi dưỡng cho ta những tình cảm yêu thương con người, yêu thương đồng loại. Trước khó khăn vất vả tưởng chừng như có thể gục ngã, ca dao giúp con người trở nên mạnh mẽ. Đó là câu chuyện của “Mười cái trứng” khi tất cả niềm hi vọng, ước mơ của người nông dân dồn vào thứ tài sản quí giá ấy thì bảy quả bị ung, ba quả nở ra ba con:

“Con diều tha
Con quạ bắt
Con mắt cắt xơi”

Người nông dân vẫn đầy lạc quan tin tưởng: “Còn da lông mục, còn chồi nảy cây”. Mỗi chúng ta tự nhìn nhận lại mình từđó mà vững vàng, mạnh mẽ hơn trước sóng gió cuộc đời.

Ca dao giáo dục quí trọng thành quả lao động vất vả mới có được:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”

Cao dao còn là những bài ca ca ngợi tình nghĩa thủy chung thương yêu giữa con người với nhau. Ta bắt gặp trong đó tình yêu mãnh liệt nhưng cũng thật tế nhị:

“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?”
Bắt gặp tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”
Tình cảm gia đình đằm thắm:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Những bài ca dao ấy gợi lên trong ta thứ tình cảm trong sáng, thủy chung giữa con người với nhau. Đọc ca dao, ta có thêm nghị lực và niềm tin vào cuộc sống mà nuôi dưỡng, phấn đấu cho đời sống tinh thần và tình cảm của mình ngày càng tốt đẹp hơn.

Trong văn thơ trung đại, những bài học giáo dục được tồn tại trong một hình thức văn học quy ước sẵn và vì thế nên cũng mang nội dung quy ước nhất định. Thấy nhiều trong mảng thơ ca giáo huấn, bày tỏ lòng mình, bài học giáo dục mang tính trực tiếp. Thơ ngợi ca thì hào sảng “Bình Ngô đại cáo” là lời tuyên bố độc lập tự do của dân tộc, khơi dậy trong lòng mỗi người dân Việt Nam niềm tự hào:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác”

Số phận bất hạnh của Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn về xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng như bồi dưỡng thêm những tình cảm con người tốt đẹp: sự đồng cảm, trân trọng, xót thương…

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Truyện “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) xây dựng hai hình tượng nhân vật đẹp, lí tưởng là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Tình yêu thủy chung son sắt của Nguyệt Nga một lần nữa bổ sung thêm vào thế giới hình tượng đẹp về người phụ nữ. Còn đức tính hào hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” của Vân Tiên cũng là một điều đáng cho chúng ta học tập.

Với những tác phẩm như vậy, các nhà thơ trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… xứng đáng là những nghệ sĩ lớn. Bước sang thời kì hiện đại, văn học không chỉ bó mình trong những khuôn mẫu có sẵn mà ngày càng mở rộng và trở nên gần gũi hơn với cuộc sống con người nhưng không vì thế mà làm giảm đi tính giáo dục, thẩm mĩ. Tô Hoài đi vào khai thác thế giới loài vật với những dế mèn, dế chũi, chị bồ nông, anh xén tóc, vợ chồng nhà chuột… gửi gắm sau đó bài học sâu sắc về cách đối nhân xử thế giữa con người với nhau, bài học về tình đoàn kết, tinh thần yêu thương đồng loại. Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn là một cuộc hành trình vươn tới hoàn thiện mình cả trong suy nghĩ và trong tình cảm, lối sống.

“Mùa lạc” (Nguyễn Khải) là câu chuyện thay đổi cuộc đời con người trong cuộc sống lao động mới. Đào, một người phụ nữ kém may mắn, chịu nhiều bất hạnh cuối cùng cũng tìm thấy hạnh phúc của mình trên mảnh đất Điện Biên. Từ chao chát, chỏng lỏn chị trở thành một con người hoàn toàn khác. Chị chỉ mỉm cười bao dung trước những câu đùa của mọi người, bởi vì giờ đây họ đã trở thành những người “nhà trai, nhà gái” của chị. Ta hiểu thêm rằng trong mọi hoàn cảnh, nghị lực sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả.

“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) mang đến cho người đọc thông điệp về cái đẹp đích thực. Nghệ thuật không chỉ là khám phá sự vật ở cái bề ngoài mà phải nhìn thấy được cái hiện thực bộn bề nằm ở bề sâu. Đó là chất cuộc sống làm nên giá trị của tác phẩm. Cái đẹp không phải đâu xa lạ à nằm trong chính những con người đang lăn lộn mưu sinh ngoài kia. Với người vợ chài lưới, điều quan trọng nhất và cũng là lí do để chị hi sinh tất cả những thứ khác đó chính là hạnh phúc và tương lai của những đứa con. Chị chấp nhận những trận đòn roi tàn nhẫn của chồng mà kiên quyết không li dị bởi chị biết trong cuộc sống khốn khổ của họ, anh ta cũng là một người bất hạnh; và cùng còn bởi một lí do khác quan trọng hơn: trên thuyền không thể không có đàn ông cũng như những đứa con của chị không thể không có cha. Người phụ nữ ấy đã nhận hết đau khổ về mình để những người xung quanh mình được hạnh phúc. Biết đồng cảm với số phận bất hạnh của họ, hiểu được ý nghĩa đích thực của cái đẹp trong cuộc sống nghĩa là chúng ta đang làm cho đời sống tinh thần tình cảm của mình phong phú, hoàn thiện hơn.

Giá trị của một tác phẩm cũng như tài năng của người nghệ sĩ thường được đánh giá bằng việc tác phẩm đó khai thác gì, đóng góp gì cho cuộc sống con người cũng như tác động như thế nào đến tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của người đọc trong những thời đại khác nhau. Nhận thức sâu sắc điều này có ý nghĩa to lớn đối với người sáng tác (phải làm sao để sáng tác ra được những tác phẩm được coi là “một cuốn sách hay”) và cả đối với quá trình tiếp nhận của bạn đọc: không chỉ tiếp nhạn các giá trị văn học mà còn cần đưa nó vào trong quá trình tự giáo dục bản thân cũng như ảnh hưởng tốt đến những người xung quanh.

Khi Đan-cô (Trái tim Đan-cô – M.Gorki) móc trái tim mình ra để soi đường cho đoàn người vượt qua cái tối tăm của rừng thẳm để đến với miền đất chan hòa ánh sáng và sự sống, chàng đã dũng cảm nhận lấy sứ mệnh vinh quang nhưng cũng đầy đau khổ của một người dẫn đường. Và từ đó trái tim Đan-cô mãi trở thành một hình ảnh biểu tượng cho những gì cao cả và đẹp đẽ của con người.

Văn học đã thể hiện được những giá trị vĩnh cửu của mình mà nói như La Bơ-ruy-e, nó đã “nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm…”

Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 2

Ý kiến của nhà văn Pháp có thể hiểu như sau: Một tác phẩm có giá trị và thật sự hay khi nó khiến cho tâm hồn và tinh thần con người thêm cao đẹp, trau dồi những phẩm chất có sẵn và xây dựng những phẩm chất chưa có, cũng như khơi nguồn những gì tốt đẹp nhất trong tận sâu con người ta. Ý kiến của ông cũng được nhiều nhà văn đồng tình,vậy hãy cùng tìm hiểu về sự đồng tình đồng ý đồng chí này nhé!

“Văn chương vừa có thế thay đổi một thế giới tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch hơn”(Thạch Lam). Văn chương có 3 chức năng, một trong các chức năng đó là chức năng nhận thức. Một tác phẩm hay sẽ là một tác phẩm giúp con người ta nhận thức được bản thân, nhìn nhận qua góc nhìn của tác giả tác phẩm hoặc chính các nhân vật trong tác phẩm. Từ việc nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách sống, cách đối nhân xử thế và dĩ nhiên, hoàn thiện bản thân. Chức năng thứ hai chính là giáo dục, bất kì một tác phẩm nào cũng hướng tới mục đích giáo dục con người, và vì thế M.Gorki mới nói “văn học là nhân học”. Cũng như La Bury-e nói vậy “một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm …đó là một cuốn sách hay”. Dĩ nhiên, ông cũng muốn nói đến giá trị của một tác phẩm và thứ làm nên giá trị của nó, đó chính là nội dung và hình thức, cũng như tấm lòng của tác giả đã khơi gợi trong lòng người đọc một sự đồng cảm sâu sắc, nếu làm được vậy thì đích thực là 1 tác phẩm hay. Tác phẩm văn học thực sự có giá trị khj nó hoàn mỹ về nội dung và nghệ thuật,và thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là “nâng cao tinh thần” và “thanh lọc tâm hồn”.

Nam Cao cũng có viết “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình..Nó làm cho người gần người hơn”. Chỉ nhiêu câu chữ thôi cũng đủ cho ta thấy với Nam Cao (tin rằng cũng như với các nhà văn khác) thì một tác phẩm tuyệt mỹ là một tác phẩm mang lại nhiều lợi ích và tác dụng cho con người và cuộc sống, tác phẩm đó phải có tính “nhân đạo hóa” sâu sắc, và sẽ được thời gian công nhận giá trị, sẽ trường tồn bất diệt nếu nó hoàn hảo, và ta cũng đã thấy trong thực tế, những Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng …đều là những tác phẩm đã gây được dấu ấn trong lòng người đọc từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, ko ai có thể phủ nhận được. Chính thế, những nhân vật trong truyện cũng trở thành tiêu biểu, bước ra đời sống hàng ngày, những hoàn cảnh sống, tư tưởng đạo lý được truyền đạt trong tác phẩm cũng trở thành chân lý cho cuộc sống.

Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 – Mẫu 3

Từ trước tới nay, trên thế giới có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Có người thì đề cao nghệ thuật, có người thì đề cao nội dung. La Bơ-ruy-e, nhà văn Pháp đã bày tỏ quan điểm của mình như sau: Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra.

Xét về mặt ý nghĩa thì quan điểm trên gần giống với quan điểm của nhà văn hiện thực Nga nổi tiếng Mác-xim Gorơ-ki: Văn học là nhân học. La Bơ-ruy-e nhấn mạnh tới chức năng giáo dục của văn học. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người. Văn chương có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu của con người. Đặc điểm của văn học là thông qua các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm để giáo dục cho con người tình cầm trong sáng, đạo lí làm người. Mặt khác, văn học giúp con người hoàn thiện nhân cách, nâng cao tình thần và gợi cho con người những tình cảm cao quý và can đảm.

Văn học đến với con người bằng con đường tình cảm, cảm xúc. Nó mang tạt cho con người những rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, trước cuộc sống phong phú, đa dạng muôn màu muôn vẻ và nhất là trước chiều sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng của văn học là giúp con người đối chiếu, liên tưởng, suy ngẫm về cuộc đời và về chính bản thân, nâng cao niềm tin vào bản thân để từ đó có nhận thức đúng đắn hơn, có khát vọng hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện của cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn tốt của con người.

Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng bày tỏ ý kiến về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn lao tới đời sống tinh thần của con người theo chiều hướng tích cực thì đó là một cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi là nghệ sĩ.

Hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao cũng có quan điểm gần giống với La Bơ-ruy-e. Thạch Lam cho rằng: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn chương, về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giả trị, vượt lên tất cà bờ cõi và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng hết sức tiến bộ : Một tác phẩm văn chương đích thực phải chứa đựng được một cải gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Nhà văn phải ỉà những người nghệ sĩ vừa có tâm vừa có tài, trong sáng tác phải tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Nam Cao).

Chúng ta có thể lấy một số tác phẩm kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế giới để chứng minh và khẳng định ý kiến của La Bơ-ruy-e là đúng.

Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là bài ca tuyệt vời về tình thương yêu con người, về đức vị tha, hi sinh đến quên mình. Nhân vật Giăng Van-giăng là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ này vì thương đàn cháu mồ côi nheo nhóc, đói khát nên đã liều đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ bánh. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng mấy lần tìm cách vượt ngục nhưng không thành nên thời gian ngồi tù cứ kéo dài ra mãi. Sau khi được trả tự do, vì hoàn cảnh ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại phạm tội cướp đồng xu của một đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đã cứu Giăng Van-giăng thoát vòng lao lí và nó tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cuộc sống và tính cách của Giăng Van-giăng.

Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vích-to Huy-gô và mang dấu ấn đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Pháp thế kỉ XIX. Nội dung đoạn trích phản ánh sự đối lập giữa cái ác và cái thiện, giữa bạo lực cường quyền và nạn nhân của nó. Qua đó, nhà văn phê phán cường quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo tốt đẹp.

Từ một người tù khổ sai, sau nhiều năm làm việc cật lực, Giăng Van-giăng đã trở thành ông chủ nhà máy có uy tín và được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng, ông quan tâm và có những nghĩa cử cao đẹp đối với người đàn bà bất hạnh Phăng-tin. Bị tên mật thám Gia-ve phát hiện và đến bắt, Giăng Van-giăng (tức thị trưởng Ma-đơ-len) không hề run sợ. Trước thái độ hung hăng, tàn nhẫn của Gia-ve, ông vẫn tìm cách trấn an Phăng-tin để níu kéo sự sống cho chị. Phăng-tin chết vì bị sốc trước sự thực phũ phàng (tên mật thám Gia-ve túm cổ áo ngài thị trưởng đáng kính). Giăng Van-giăng ghé tai chị thì thầm hứa sẽ tìm bằng được bé Cô-dét – đứa con gái yêu quý của chị. Một điều kì diệu ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra: Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy, thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết. Đây là một ảo tưởng cảm động trước một sự thực cao cả làm rung động sâu xa tâm hồn người đọc.

Truyện ngắn Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp khồng ngần ngại nói lên cái giá rất đắt của chiến thắng, những đau khổ tột cùng mà con người phải gánh chịu do chiến tranh ; đồng thời ca ngợi lòng nhân hậu, vị tha của người lính Hồng quân nói riêng và của nhân dân Nga nói chung. Tác phẩm này ra đời như một sự kiện làm chấn động nền văn học Xô viết và Sô-lô-khốp được đánh giá là nhà văn vĩ đại của nước Nga thế kỉ XX.

Nhân vật chính của truyện là An-đrây Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên bang Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Bị bắt làm tù binh, anh phải chịu đựng sự hành hạ dã man của kẻ thù. Trong một cuộc trốn chạy để trở về với Hồng quân, anh đã mưu trí dũng cảm bắt sống một tên thiếu tá Đức và cướp một xe vận tải. Chiến tranh kết thúc, thay vì được hưởng niềm hạnh phúc vô biên là được đoàn tụ với gia đình trên quê hương thân yêu thì Xô-cô-lốp lại phải chịu đựng một số phận bất hạnh : Vợ và hai con gái nhỏ bị trúng bom của phát xít; con trai lớn của anh cũng là một chiến sĩ Hồng quân đã trúng đạn ngã xuống tại cửa ngõ Béc-lin ngay trong ngày chiến thắng. Đất nước đã hòa bình nhưng Xô-cô-lốp không thể sống yên ổn bởi anh mang trong tim một nỗi đau vô hạn. Anh nhận chú bé mồ côi Va-ni-a làm con nuôi và từ đó cuộc sống của anh thay đổi hẳn. Tuy vất vả, cực nhọc nhưng Xô-cô-lốp thấy lòng vui trở lại, thấy cuộc đời là đáng yêu, đáng sống. Tình yêu thương quả là một sức mạnh thần kì giúp con người vượt qua nghịch cảnh, chiến thắng sự nghiệt ngã của số phận. Nhân vật Xô-cô-lốp là hiện thân của tính cách Nga kiên cường, dũng cảm và giàu lòng nhân ái. Bằng hình tượng nhân vật điển hình này, nhà văn Sô-lô-khốp đã đề cập tới một vấn đề trọng đại từng ám ảnh bao nghệ sĩ lớn, đó là vấn đề số phận con người. Một khái niệm trừu tượng đã được nhà văn cụ thể hóa thông qua cuộc đời của một nhân vật với nhiều đau khổ, mất mát; để rồi với ý chí, nghị lực phi thường và lòng nhân ái sâu sắc, nhân vật đã vượt qua tất cả để chiến thắng số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp, người đọc nhận thức được rất nhiều điều và cũng học được nhiều bài học nhân sinh bổ ích từ nhân vật Xô-cô-lốp. Đó là thành công của tác phẩm, là vinh dự lớn lao của người nghệ sĩ.

Trong tiểu thuyết ông già và biển cả của nhà văn Mĩ Hê-minh-uê, hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời mình là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Tác phẩm này là một bài học thiết thực và bổ ích về khát vọng, ý chí và nghị lực của con người. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt là chỉ có một mình giữa biển khơi bao la đầy bất trắc ; một mình săn đuổi, đánh bắt con cá kiếm khổng lồ và một mình đương đầu với đàn cá mập hung dữ để bảo vệ thành quả lao động, ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô suốt đời làm lụng vất vả, cực nhọc nhưng không nguôi mơ ước một ngày nào đó sẽ đánh bắt được một con cá thật to để thỏa mãn ước mơ và khẳng định tài năng của mình. Trớ trêu thay, cho tới lúc ông đã quá già thì ước mơ này mới trở thành hiện thực. Suốt mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông lão mới phát hiện ra con cá kiếm khổng lồ, to hơn chiếc thuyền của ông. Cuộc chiến đấu gay go giữa người và cá kéo dài tưởng chừng quá sức chịu đựng của ông lão, nhưng ông lão không nản chí, vẫn đem hết sức lực để bắt bằng được con cá mà ông ao ước đã bao lâu. Thế nhưng đàn cá mập tham lam đã tấn công con cá kiếm. Mặc dù ông lão chống đỡ quyết liệt để xua đuổi đàn cá mập hung dữ nhưng đến lúc thuyền cập bến thì con cá kiếm chỉ còn là một bộ xương.

Cốt truyện giản dị chỉ có vậy nhưng Hê-minh-uê đã viết nên một áng văn xuôi giản dị và trung thực về con người. Tuy không có âm hưởng anh hùng ca nhưng câu chuyện về ông lão đánh cá thực sự là bài ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn, kiên cường rất đáng khâm phục của người lao động. Tác phẩm còn chứa đựng một tầng nghĩa sâu xa hơn trong hình tượng con cá kiếm và ông già đánh cá. Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá kiếm vùng vẫy tự do trên biển cả tượng trưng cho ước mơ và lí tưởng mà con người suốt đời khao khát và theo đuổi. Ông lão đánh cá với ý chí kiên cường tiêu biểu cho quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực của con người. Tiểu thuyết ông già và biển cả với số trang khiêm tốn chì nhiều hơn một truyện vừa chút ít nhưng thực sự là một sáng tác mà nhà văn nào cũng ao ước viết được lấy một lần (Phôn-cơ-ne), bởi nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trên toàn thế giới và đem lại vinh quang cho tên tuổi Hê-minh-uê – một nghệ sĩ vĩ đại của nhân loại.

Ý kiến của La Bơ-ruy-e đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và nêu lên cách đánh giá đúng đắn về – tài năng người nghệ sĩ. Văn chương đem lại cho con người những giá trị tinh thần cao quý, giúp con người hướng tới Chân, Thiện, Mĩ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua thử thách khắc nghiệt của dư luận, của thời gian, không gian để trở thành kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định: … đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài văn mẫu lớp 12: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 3) Bài viết số 5 lớp 12 tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Xin Chân thành cảm ơn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *