Bài văn mẫu lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) Tuyển tập 55 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất

Bài văn mẫu lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) Tuyển tập 55 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất

Bạn đang xem bài viếtBài văn mẫu lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) Tuyển tập 55 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Bài văn mẫu Lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) gồm 55 bài văn mẫu từ đề 1 đến đề 4 của bài viết số 7 lớp 6. Giúp các em tham khảo, có thêm ý tưởng, hoàn thiện bài viết số 7 của mình đạt kết quả cao.Bài văn mẫu lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) Tuyển tập 55 bài văn mẫu lớp 6 hay nhấtBài viết số 7 lớp 6 gồm 4 đề như sau:

  • Đề 1: Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em.
  • Đề 2: Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời.
  • Đề 3: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ tích dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của mình.
  • Đề 4: Hãy tả lại một nhân vật có hành động và ngoại hình khác thường mà em đã có dịp quan sát, đã đọc sách hoặc nghe kể lại.

    Bài văn mẫu Lớp 6: Bài viết số 7

    • Bài viết số 7 lớp 6 đề 1
      • Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 1
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 1 – Mẫu 1
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 1 – Mẫu 2
    • Bài viết số 7 lớp 6 đề 2
      • Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 2
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 2 – Mẫu 1
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 2 – Mẫu 2
    • Bài viết số 7 lớp 6 đề 3
      • Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 3
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 3 – Mẫu 1
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 3 – Mẫu 2
    • Bài viết số 7 lớp 6 đề 4
      • Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 4
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 4 – Mẫu 1
      • Bài viết số 7 lớp 6 đề 4 – Mẫu 2

Bài viết số 7 lớp 6 đề 1

Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 1

I. Mở bài

– Những lần về quê ngoại chơi, em đều được ngoại dẫn đi chợ quê, những phiên chợ rất đông vui và nhộn nhịp.

II. Thân bài

1. Địa điểm, thời gian họp chợ

– Phiên chợ quê ở đây thường họp vào ngày mồng một, ngày 15 và ngày 23 hàng tháng.

2. Khung cảnh phiên chợ

– Biển tên chợ được ghi rõ và sơn màu đỏ theo đường viền của chữ nổi bật

– Mặt hàng được bày bán:

  • Gian hàng trưng bày hoa rực rỡ cả góc chợ.
  • Gian hàng rau củ đầy đủ các loại phục vụ thực khách.
  • Gian hàng áo quần với nhiều mẫu mã, kiểu dáng nổi bật.
  • Gian hàng thịt cá tươi ngon.
  • Gian hàng bánh trái mang hương vị đồng quê.

3. Cảnh tượng phiên chợ

– Đông đúc, nhộn nhịp.

– Rộn ràng tiếng cười nói của người mua, kẻ bán.

– Tiếng trò chuyện ồn ào, tấp nập.

– Mọi người tinh tế chọn lựa những món đồ tươi ngon cho mình.

III. Kết bài

– Chợ quê là thế, giản dị, mộc mạc mà ấm áp tình người.

– Chợ quê mang sức sống vẻ đẹp riêng mà không nơi nào có được, những phiên chợ luôn mãi là ấn tượng đẹp đẽ trong lòng em mãi không bao giờ quên được.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 1 – Mẫu 1

Hằng năm, cứ vào hai mươi lăm tháng chạp âm lịch là bố mẹ lại đi chợ sắm Tết. Tôi được bố mẹ giao nhiệm vụ trông nhà nên không được đi. Chính vì vậy, tôi đã tưởng tượng trước một cảnh chợ quê đông vui.

Chợ quê tôi ở gần trung tâm huyện, họp trên một bãi đất rộng.Chợ chỉ họp mỗi tháng ba lần, mẹ tôi gọi là chợ phiên. Khác hẳn với phiên chợ bình thường, phiên chợ Tết đông nghịt người. Mọi người đi sắm Tết thật nhộn nhịp.

Chợ quê tôi năm nay đã khác xưa nhiều. Không còn hình ảnh các bà các cô ngồi đó với những chiếc thúng, các mẹt… Mà là các ki-ốt, cửa hàng trông khang trang với những món đồ được sắp xếp sạch sẽ, gọn gàng. Các gian hàng ngày thường trông trơn, nay đầy ắp hàng hoá. Trước mặt là khu bán lương thực, hoa quả, trông thật hấp dẫn. Những quả dưa hấu tròn, to trông như những chú lợn con. Những quả thanh long đỏ hồng và tròn căng, sắn miếng, sắn củ bán theo bó, xếp dọc thành một hàng. Ngô bắp hạt vàng, to, chắc mẩy túm thành từng bó. Tôi tưởng tượng, những món đó hấp dẫn mình nhất có lẽ là những thúng hạt dẻ, sọt cam, quýt căng tròn, mọng nước. Tôi nhìn mà nhỏ cả nước miếng. Sau dãy hoa quả là một dãy hàng rau. Những mớ rau xanh mơn mởn. Rất nhiều loại rau được bó thành từng bó to, trông thật hấp dẫn. Người bán đứng, ngồi, nói cười luôn miệng. Người mua thì chen chúc, bới lục, tiếng nói ồn ã, líu ríu.

Đông vui, nhộn nhịp nhất là khu bán vải, quần áo, chỉ thêu… Khách hàng là phụ nữ của nhiều dân tộc từ những bản làng xa xôi trên núi cao. Họ mặc những bộ trang phục sặc sỡ vối những hoa màu rắc rối phức tạp đến hoa cả mắt. Những gian hàng với rất nhiều loại trang phục khác nhau.

“Chà! Thơm quá!” – Tôi thầm nghĩ rằng mùi thơm này sẽ đến từ khu bán hàng ăn. Những món ăn trông hấp dẫn biết bao nhiêu. Cạnh khu bán hàng ăn là cửa hàng tranh. Tranh đủ loại, tranh Đông Hồ, tranh đá quý… Tranh có những cành đào tuyệt đẹp và những chữ nho nhiều kiểu cách được cụ đồ ngồi vẽ dưới sự trầm trồ của mọi người. Tôi mải mê ngắm nhìn mà quên cả thời gian.

Phiên chợ Tết đông vui, nhộn nhịp. Nó đã góp phần thể hiện bản sắc dân tộc của quê hương. Tôi mong sao có thể một lần được mẹ cho đi chợ Tết.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 1 – Mẫu 2

Tết đến, xuân về – đây là thời điểm mà mọi người háo hức bắt đầu chuẩn bị đi mua sắm Tết. Những khu chợ trở nên đông vui nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Đường phố những ngày tết lúc nào cũng đông đúc, tấp nập. Nhưng đặc biệt nhất phải kể đến chợ hoa Tết rực rỡ sắc màu của trăm loài hoa khoe sắc.

Từ hai lăm đến ba mươi tết, khi ra đường là đã thấy các cửa hàng bán hoa. Những người người đến xem đông như trẩy hội, nào là hoa cúc, hoa mai, đào, cẩm chướng, lay ơn, thược dược… Muôn loài hoa đã về đây, trong thời khắc này để cùng nhau hội tụ. Chợ hoa ngày cuối năm nhộn nhịp và náo nhiệt không kém chợ tết là mấy. Chợ hoa Tết cũng đông vui không kém những khu chợ khác. Người mua, người bán cười nói rôm rả, xôn xao khắp cả chợ.

Những chiếc xe chở phía sau những chậu quất, cành đào ra vào tấp nập. Gương mặt của mọi người đều tươi rói, hớn hở vì một mùa xuân mới lại sắp về. Bên cạnh những gian hàng bán đào và quất là các gian bán hoa tươi. Các loại hoa được bày bán rất đa dạng. Hoa hồng, hoa cúc, hoa vi-ô-let, hoa lan, hoa dơn, hoa thược dược… Tất cả tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc cho chợ hoa. Đắt Những quầy bán hoa thu hút rất đông người mua, Bởi có lẽ mọi người đều muốn chọn cho mình những bông hoa tươi nhất, đẹp nhất để về đặt lên bàn thờ tổ tiên trong ngày tết.

Người bán hồ hởi mời chào khách mua hoa, người mua vừa chiêm ngưỡng những đóa hoa đẹp nhất vừa đắn đo lựa chọn những bó hoa đủ mọi sắc màu. Người ta đi chợ hoa như đi trẩy hội để dành cho mình những sắc hương đẹp nhất mang về trang hoàng và mang không khí tết về với gia đình.

Đông đúc nhất phải là những khu bán đào, mai và quất. Bởi đây là những loại cây đặc trưng của ngày tết, nên mọi người đều muốn mua một chậu đào, mai hoặc quất về chơi Tết. Những chậu cây được tạo với nhiều hình dáng độc đáo. Những nụ hoa đào, hoa mai đã bắt đầu bung nở trong những cơn mưa xuân. Bố em cũng chọn được một chậu đào rất đẹp. Khi bố mang chậu hoa về, em cảm thấy rất thích nó.

Đã bao đời nay, Tết trở thành một lễ hội nằm trong niềm mong đợi và không thể thiếu của con người Việt Nam. Và những khu chợ hoa cũng đã trở thành một nét đặc trưng không thể thiếu của những ngày tết.

……..

Bài viết số 7 lớp 6 đề 2

Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 2

1. Mở bài

Giới thiệu về đối tượng miêu tả: Hằng ngày, khi ông mặt trời thức dậy, em ra vườn hoa nhỏ bé của nhà tập thể dục và dành ít phút ngắm nhìn khu vườn hoa xinh xinh này.

2. Thân bài

– Tả cảnh vật trong vườn:

  • Màn sương đang tan dần, khoảnh vườn đang tỉnh giấc.
  • Những hạt sương đêm còn long lanh đọng trên nhành cây, kẽ lá.
  • Cây cối trong vườn tươi tắn, những bông hoa đua nhau nở khoe sắc dưới ánh nắng bình minh.
  • Những cánh hoa nở tung rực rỡ, mỗi loài hoa một màu sắc, một hương vị, một vẻ đẹp.
  • Hương vị ngọt ngào đã quyến rũ ong bướm múa lượn bên những khóm hoa.
  • Những hạt sương tan dần tạo thành muôn lạch nước nhỏ xíu.
  • Cô gió đánh nhịp cho lá cây vui hát rì rào.
  • Mặt trời lên, ánh nắng chiếu lấp lánh khiến khu vườn rạng rỡ một màu xanh đầy sức sống.
  • Vài chú chim ghé qua hót líu lo nghe thật vui tai.

3. Kết bài

Em thích ngắm nhìn khoảnh vườn vào buổi bình minh và yêu quý khu vườn nhỏ bé này vô cùng.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 2 – Mẫu 1

Tuổi thơ của tôi là năm tháng đầy ắp kỷ niệm về khu vườn của bà nội. Cứ mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi lại háo hức được về thăm bà, và cùng bạn bè trong xóm dạo chơi trong khu vườn.

Tôi thích nhất là khu vườn vào mỗi buổi sáng. Khi thức dậy, tôi đều đứng ra cửa hít thở không khí trong lành và mùi thơm thoang thoảng từ những đóa hoa. Khung cảnh như một bức tranh thật đẹp, có màu sắc, có hương thơm và có cả âm thanh từ những tiếng chim hót ríu rít. Từ ngày bà nội lên, tôi rất vui vì bà đã đem lại cho tôi điều mà tôi mong từ lâu. Tôi yêu quý khu vườn không chỉ vì nó là ước mong của tôi mà đó cũng là món quà, là tấm lòng của bà cho tôi. Tôi chăm sóc từng cành cây, từng bông hoa thật chu đáo. Hàng ngày tôi và bà đều tưới nước, bắt sâu, bà còn tỉa nhiều cây thành hình con đại bàng, con nai.. Vì thế mà khu vườn càng thêm rực rỡ. Dưới ánh nắng vàng, khu vườn làm cả nhà tôi như sáng lên cùng cây cỏ.

Cứ rảnh rỗi, bà lại kể cho tôi nghe về nguồn gốc của từng loại cây. Từ khi có khu vườn, tôi như thêm vui vẻ, nó như người bạn thân thiết của tôi, như chiếc cầu vô hình nối tình cảm của tôi bà càng thêm sâu đậm. Nhiều khi nằm một mình trong khu vườn nhỏ vuông vắn, tôi lại cảm thấy thỏa mái kỳ lạ, có chuyện gì vui hay buồn, tôi đều như có một người bạn ở bên cùng chia sẻ, cùng nói chuyện với tôi làm tôi bớt căng thẳng hay buồn bực. Bây giờ bà đã về nhưng thỉnh thoảng bà vẫn gửi cho tôi những cây hoa đẹp và dặn dò tôi chăm sóc chúng cẩn thận. Nhìn khu vườn, tôi lại nhớ đến bà, nó như thay bà nói chuyện, tâm tình cùng tôi. Giờ đây, từng chiếc lá, từng cánh hoa đều thật sự gắn bó với tôi, cứ như thế, nó như đã là một phần cuộc sống của tôi.

Một khu vườn nhỏ bé nhưng ý nghĩa của nó lại thật sâu sắc. Những cành cây, bông hoa tưởng như một vật vô tri vô giác nhưng lại là một con người khích lệ tinh thần tôi mỗi khi gặp khó khăn. Mỗi bông hoa nở như một nụ cười trìu mến của bà với tôi làm trái tim tôi thêm một lần xao xuyến.

Khu vườn gợi nhớ về những kỉ niệm thơ ấu, về bà nội. Làm sao không yêu cho được một khu vườn như thế, một kỷ niệm thơ ấu còn mãi trong tôi.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 2 – Mẫu 2

Khu vườn là nơi đã lưu giữ kỉ niệm về ông nội. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ về những buổi sáng trong khu vườn, cùng ông chăm sóc cây cối, nghe ông kể những câu chuyện thời xưa.

Sáng sớm, tiết trời còn se lạnh. Gió thoảng, khẽ lay động cành lá để lộ những giọt sương mai trắng muốt của một buổi sớm tinh khôi. Cả xóm làng bồng bềnh trong một biển sương sớm. Về phía đông, mặt trời e thẹn, ửng hồng sau hàng bạch đàn và thả muôn ngàn tia nắng lấp lánh xuống mặt đất. Trên trời, những đám mây đang nhè nhẹ trôi với các sắc màu kì ảo.

Tôi thức dậy thật sớm chạy ra vườn cây. Trong vườn cây của ông nội, mỗi loại cây đều có những kỉ niệm gắn bó với tuổi thơ tôi. Cây khế chua hồi đó là nơi các chị con nhà bác tôi hay trèo lên hái quả. Còn cây chay gần bờ ao cũng vậy, quả chay xanh thì chua, nhưng cái chua dìu dịu không gắt như khế. Quả chay chín màu vàng ở ngoài, bên trong màu đỏ, ăn rất ngọt, bà tôi hay hái quả chay đem kho cá, ăn món cá kho với quả chay rất hao cơm, ăn một bát lại muốn ăn hai, vị chua chua ngòn ngọt của chay, vị beo béo bùi bùi của hạt chay quyện với mùi thơm ngầy ngậy của món cá kho làm nước miếng tối cứ ứa ra khi nồi cá kho được bưng lên mâm. Cây sung cạnh bờ ao không biết có tự bao giờ, khi tôi về quê thấy nó đã bị ngã gần sát mặt ao, bọn trẻ chúng tôi vẫn hay vặt quả sung cho vào miệng nhai rôm rốp, ăn sung có vị chan chát cũng hay. Mấy cây vải thiều khi mùa quả chín, bọn trẻ chúng tôi suốt ngày quanh quẩn dưới gốc cây để kều, chọc vải ăn, quả vải chín cùi dày, ngọt lịm và rất ngon, chúng tôi ăn no đến mức không ăn được cơm.

Cuối vườn, những quả cam khoác chiếc áo vàng như mật, căng tròn, mọng nước. Mấy bé na mở mắt tròn xoe đã dậy từ khi nào. Những trái sầu riêng, đu đủ chín thơm phức cả góc vườn, quyến rũ ong bướm bằng mùi thơm nồng nàn của chính nó. Các chị hồng duyên dáng ngát hương dịu dàng nhưng đủ sức đánh thức vạn vật. Mấy chú chim non trốn trong vòm lá um tùm đã tung đôi cánh bay vào khoảng trời bao la.

Thật tuyệt vời biết bao khi mỗi sớm mai thức giấc được ngắm nhìn khu vườn. Bầu không khí trong lành khiến cho tôi cảm thấy tràn đầy sức sống để bắt đầu một ngày mới.

……..

Bài viết số 7 lớp 6 đề 3

Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 3

I. Mở bài

Giới thiệu nhân vật miêu tả (ông tiên): Nhân vật thường xuất hiện trong các truyện cổ tích.

II. Thân bài

1. Ngoại hình

  • Xuất hiện toàn thân toả ánh hào quang, huyền ảo.
  • Dáng vẻ ung dung, mặc bộ quần áo chùng cổ xưa, ống tay rộng.
  • Tay chống gậy trúc, hoặc cầm cây phất trần, hồ lô…
  • Khuôn mặt hiền từ phúc hậu, đôi mắt tinh anh, vầng trán rộng,…
  • Râu tóc trắng phau, da dẻ hồng hào,…

2. Tính cách: hiền hậu, hay giúp đỡ những người bất hạnh…

3. Hành động

  • Luôn quan tâm theo dõi mọi chuyện trong dân gian.
  • Xuất hiện kịp thời để giúp đỡ người lương thiện và trừng trị kẻ ác.
  • Giọng nói ấm áp, ân cần, gần gũi với những người bất hạnh.
  • Ban phép lạ, gỡ bí cho người lương thiện.
  • Thường biến mất sau mỗi lần hoàn thành sứ mệnh.

III. Kết bài

Nêu tình cảm, suy nghĩ của em với ông tiên: yêu quý, kính trọng… muốn làm nhiều việc thiện, việc tốt giống ông Tiên trong những câu chuyện dân gian.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 3 – Mẫu 1

Hình ảnh ông tiên trong truyện cổ tích Tấm Cám gây cho em ấn tượng đặc biệt. Em chỉ ước mong ngày nào đó mình cũng sẽ được gặp ông tiên như thế cho thoả nỗi chờ mong. Rồi một đêm mùa đông gió lạnh, ngoài trời gió thổi gầm rú, cuộn tròn ấm áp trong chiếc chăn len, em đã được gặp ông tiên trong giấc mơ của mình.

Lúc đó em nằm mơ thấy mình bị lạc vào rừng sâu, giữa màn đêm mịt mù không thấy đường mà bước. Xung quanh biết bao âm thanh ghê sợ, em đã lò dò thì bỗng một con trăn ở đâu lao tới nó quấn lấy người em, em cô sức vẫy vùng để chống cự, nhưng con trăn lớn quá nó siết chặt lấy em không thể nào thoát được. Em gào khóc thảm thiết kêu cứu nhưng xung quanh không có một ai, chỉ có tiếng cọp gầm dữ dội và tiếng cú kêu vì có mùi xác chết. Con trăn mỗi lúc một xiết chặt xương cốt bị bó lại đau nhức cổ họng nghẹn lại thở không được. Em nghĩ mình sắp chết đến nơi rồi. Con trăn chỉ cần xiết một vòng nữa là em bị tắt thở. Em đau đớn tuyệt vọng. Bỗng có một luồng sáng xuất hiện, một ông cụ cao lớn, đầu tóc bạc phơ, chòm râu trắng như cước dài tới chấm ngực, khuôn mặt hồng hào, đôi mắt hiền từ hiện ra. Ông bảo em:

– Con đừng sợ! Ta là bụt xuống cứu giúp con đây.

Ông bụt lấy cây gậy gõ vào đầu con trăn ba cái. Con trăn lập tức thả em ra và chạy vào rừng. Ông Tiên xoa đầu em, bao nhiêu đau đớn trong người lập tức tan biến. Ông bảo em:

– Bây giờ ta chưa thể đưa con về nhà được! Vì có một cậu bé đang gặp nguy hiểm ta phải đến cứu ngay. Mà để con lại đây một mình thì không được. Thôi con hãy đi cùng ta.

Em mừng quá, vội nói:

– Cháu sẽ đi với ông ạ!

Ông lấy cây gậy gõ xuống đất một cái, lập tức một chú ngựa bạch hiện ra, ông đặt em lên lưng chú ngựa – ngựa lao vun vút, còn ông nâng mình bay trong không gian – đúng là phép tiên kỳ diệu.

Tôi và ông đi đến đầm lầy nơi một cậu bé đang gặp nguy, cậu bé đi hái thuốc về cho mẹ, lỡ chân bị sa xuồng. Ông chỉ cần lấy gậy gõ xuống hai cái lập tức đất nơi cậu bé đứng đang nhão nhoét bỗng cứng lại. Cậu bé bước từ đầu đến chân bê bết bùn đất. Bàn tay ông khẽ chạm vào, tất cả bùn đất không còn dấu vết. Em và bạn ấy cùng cưỡi chung con ngựa bạch – ông tiên bay ở phía trước, con ngựa bạch phi nước đại phía sau. Dáng ông khoai thai chậm rãi, chòm râu trắng bay trong gió, cả bộ y phục của ông cũng màu trắng nữa. Bay qua khỏi bìa rừng, tới con đường lớn ông Tiên dừng lại bảo em và cậu bé bị nạn:

– Ở đây không còn nguy hiểm nữa, các con có thể tự về nhà được rồi! Ông còn phải đi giúp đỡ những người khác!

Em và cậu bé hôn tạm biệt con ngựa bạch, cảm ơn ông Tiên, thoáng một cái ông và con ngựa đã biến mất. Em đang trong tâm trạng tiếc nuối ngẩn ngơ, thì bỗng có bàn tay ai đặt ở vai lay nhẹ. Em mở mắt mẹ đang đánh thức em.

– Sắp tới giờ đi học rồi đấy con trai!

Em rất vui vì mình đã có một giấc mơ thật đẹp, em mong ước có thêm những giấc mơ như thế nữa.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 3 – Mẫu 2

Tuổi thơ của em là những đêm trăng sáng được nằm nghe bà kể chuyện cổ tích. Trong những câu chuyện đó, nhân vật mà em cảm thấy ấn tượng nhất đó chính là ông tiên.

Trong tưởng tượng của em, nhân vật này là một ông lão tầm khoảng sáu mươi đến bảy mươi tuổi. Mỗi khi ông xuất hiện là toàn thân lại toả ánh hào quang, huyền ảo. Dáng vẻ của ông ung dung. Ông tiên mặc bộ quần áo chùng cổ xưa, màu trắng tinh với ống tay rộng. Một tay chống gậy trúc, hoặc cầm cây phất trần, hồ lô. Khuôn mặt của ông hiền từ phúc hậu. Còn đôi mắt tinh anh, vầng trán rộng. Đặc biệt là chòm râu dài bạc trắng. Nụ cười của ông trông thật hiền từ khiến mọi người cảm thấy vô cùng tin tưởng.

Mỗi khi các nhân vật chính trong truyện cần đến sự giúp đỡ là ông tiên lại xuất hiện. Ông thường cất tiếng hỏi han. Lời nói ồn tồn, ấm áp. Sau khi nghe rõ sự tình câu chuyện, ông sử dụng cây gậy trúc hoặc phát trần, hô lô để ban phép lạ, giúp đỡ cho người lương thiện. Sau đó ông hường biến mất sau mỗi lần hoàn thành sứ mệnh của mình.

Chính nhờ có sự giúp đỡ của ông mà những nhân vật lương thiện như cô Tấm trong truyện Tấm Cám, chàng trai trong Cây tre trăm đốt mới có được kết thúc có hậu. Tuy ông tiên chỉ là một nhân vật trong truyện cổ tích nhưng em cảm thấy rất ngưỡng mộ ông. Bởi chính ông đã giúp thực hiện chân lí “Ở hiền gặp lành”, “Ở ác gặp ác”. Em cũng tự hứa sẽ học tập ông tiên: cố gắng làm những việc tốt, giúp đỡ những người khó khăn…

Đối với em, ông tiên là một nhân vật đáng yêu. Nhờ có ông mà những câu chuyện mới trở nên hấp dẫn hơn. Em cũng thêm yêu những truyện cổ tích của nước mình hơn.

……..

Bài viết số 7 lớp 6 đề 4

Dàn ý bài viết số 7 lớp 6 đề 4

I. Mở bài

Giới thiệu đối tượng em định tả: Nhân vật em miêu tả là ai? Em gặp người đó ở đâu? Vào dịp nào? Người đó có ngoại hình và hành động khác thường ra sao?

II. Thân bài

1. Tả những đặc điểm về ngoại hình

– Tuổi tác, nghề nghiệp.

– Ngoại hình: gương mặt, mái tóc, màu da… (chú ý tập trung miêu tả các chi tiết khác thường để làm nổi bật đối tượng).

2. Tả những đặc điểm về tính tình

– Sôi nổi, nhiệt tình hay điềm đạm, chín chắn

– Dễ hòa đồng, thân thiện với mọi người hay lạnh lùng, khó gần

– Có thận trọng nghiêm túc trong khi làm việc hay không

3. Tài năng khác thường của người đó: kể chi tiết về những hành động khác thường…

III. Kết bài

Cảm nghĩ của em về nhân vật đó: yêu mến, cảm phục…

Bài viết số 7 lớp 6 đề 4 – Mẫu 1

Mỗi chúng ta, ai cũng có số phận của riêng mình. Một lần tình cờ, em đã được nghe chị gái kể về một người đàn ông mang ngoại hình và hành động khác thường nhưng đáng kính vô cùng – đó là một người lính thương binh trở về từ chiến trường.

Chiến tranh khốc liệt đã lùi xa vào quá khứ, song những nỗi đau, những con người bước ra từ cuộc chiến vẫn còn đó. Họ vẫn sống, dù cuộc sống không bình thường như bao người khác. Chị gái em là một nhà báo trẻ. Chị đi khắp mọi nẻo đường, về khắp mọi miền quê để tìm và ghi lại những câu chuyện đã qua – những mảnh ghép quá khứ ngày ấy. Sau chuyến đi từ Quảng Trị trở về, chị cầm bức ảnh chụp một người đàn ông, lặng lẽ kể cho em nghe về người đó.

Trong bức ảnh ngược nắng và giọng kể đều đều của chị, em nhìn thấy một người đàn ông đã ngoài bảy mươi tuổi, mái tóc bạc trắng như cước. Khuôn mặt vuông chữ điền nghiêm nghị, chất phác. Thời gian đã làm những nếp nhăn trên khuôn mặt, trên khóe mắt ông dày thêm xen những nốt đồi mồi ở làn da của những người đến tuổi xế bóng. Nụ cười bên miệng móm mém cùng ánh mắt lóe sáng lấp lánh. Vành mắt hơi cong cong tạo cho người xem ảnh cảm giác rất khó tả. Lưng ông đã còng xuống, có lẽ vì gánh nặng bao năm của cuộc đời. Chị bảo người dân xung quanh gọi ông là ông Hai Bình.

Nhưng em đã không kìm được xúc động khi nhìn đến bàn tay đang giơ lên trong bức ảnh. Trên đôi bàn tay ấy chỉ có duy nhất một ngón cái tay lành lặn, những ngón khác đều đã cụt hết. Ông cong cong ngón cái cùng mái đầu hơi gật xuống. Chị em bồi hồi nhớ lại khung cảnh chị chụp bức ảnh này, chị nói ông là một người cựu chiến binh của chiến trường miền Nam hơn năm mươi năm về trước. Bom đạn quân thù đã tàn phá nặng nề cột sống và cướp đi bốn ngón tay trên bàn tay phải của ông. Một điều đặc biệt nữa là ông không nói được, một loại chất độc ngày xưa rải xuống Trường Sơn đã khiến ông mất đi khả năng giao tiếp. Trong suốt quá trình trò chuyện với đoàn chị tôi, ông dùng ngôn ngữ của người câm và những nét chữ viết bằng tay trái.

Chiến tranh đã mang đến cho ông – người thanh niên năm ấy mới ngoài hai mươi tuổi những nỗi đau không thể tưởng tượng nổi. Nhưng khi chị em hỏi về những năm tháng ấy, trên khóe miệng ông luôn thường trực một nụ cười và ánh mắt sáng xa xăm đầy hoài niệm đầy tự hào. Trong lá thư gửi chị em – cô nhà báo mà ông thực sự cảm ơn, ông nói ông chưa bao giờ hối hận vì năm đó đã xung phong đi chiến đấu. Dù mất mát, dù đau thương, nhưng đó là lý tưởng của tuổi trẻ, là điều vô cùng ý nghĩa với cuộc đời ông. Ngón cái cong cong xuống trong ngôn ngữ của người câm, chị em nói đó là lời cảm ơn. Người đàn ông đã chịu đủ đau thương vẫn lạc quan vào cuộc đời, vẫn chân thành cảm ơn cuộc sống đã cho ông cơ hội để hoàn thành lý tưởng của mình. Ở Quảng Trị thân yêu của tổ quốc, ông một mình sống trong ngôi nhà nhỏ, lặng lẽ nhìn ngắm nước nhà đổi thay mà tự hào, hài lòng. Dù cho nhắc lại tên những người đồng chí cùng kề vai sát cánh ngày xưa, ông vẫn không nén được mà trào nước mắt. Trở về cuộc sống bình thường với hình hài và hành động khác thường, song ông chưa bao giờ cảm thấy đau khổ, chán nản. Ông chia sẻ, còn sống để trở về là một may mắn, Tổ quốc đã cho ông cơ hội trở về, trở về để tiếp tục cuộc đời còn đang tiếp diễn, để chứng kiến Tổ quốc sau chiến tranh.

Chị em rời Quảng Trị, tạm biệt ông trong một ngày nắng rực rỡ. Nụ cười ngược nắng của ông, một người khác thường mà vô cùng phi thường đã tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ trẻ chúng em. Chúng em phải sống xứng đáng với nỗi đau mà thế hệ ông Hai Bình đã trải qua, xứng đáng với niềm tin của thế hệ anh hùng bất khuất, những chiến binh đã viết lên trang sử vàng chói lói của Tổ quốc như ông.

Bài viết số 7 lớp 6 đề 4 – Mẫu 2

Trong các truyện mà em đã học, em thích nhất là truyện Thánh Gióng. Và nhân vật thánh Gióng cũng là khiến em cảm thấy vô cùng ấn tượng. Bởi đây là nhân vật có ngoại hình và hành động khác thường.

Thánh Gióng có xuất thân rất kì lạ. Bà mẹ của chàng có thai Gióng không giống như bình thường. Trong một lần đi rừng kiếm củi, thấy vết chân khổng lồ in trên mặt đất, bà ướm thử chân mình vào đó rồi có thai. Đây là cách dân gian, tưởng tượng ra để nhân vật của mình mang những nét phi thường. Càng kỳ lạ hơn khi Gióng đã lên ba tuổi mà chẳng biết nói, biết cười và cũng không đi được bước nào, đặt đâu nằm đấy. Điều ấy khiến bà mẹ buồn lòng nhưng không vì vậy mà tình thương con giảm bớt. Bà vẫn ân cần chăm sóc đứa con trai khác thường mà không hề phàn nàn, kêu ca một tiếng.

Thánh Gióng không phải là đứa trẻ yếu đuối tật nguyền. Tiếng nói đầu tiên của cậu cất lên là khi cậu nhờ mẹ mời sứ giả vào. Tiếng nói cất lên từ tấm lòng yêu nước, mong muốn đánh đuổi giặc khỏi đất nước. Sau khi gặp sứ giả, cậu bé Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã chật. Một bữa Gióng ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi nước cạn đà khúc sông. Mẹ Gióng nuôi Gióng không nổi, cả làng góp gạo nuôi cậu bé với kỳ vọng cậu sẽ trở thành người anh hùng cứu nước. Dường như việc cứu nước vô cùng cấp bách đã thúc đẩy Gióng vụt lớn lên nhanh. Sự khác thường trong ngoại hình và hành động của cậu bé làng Gióng chính là tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh giữ nước.

Khi sứ giả đem ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt và nón sắt tới, Gióng vùng dậy, vươn một cái, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Gióng nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun ra lửa, phi thẳng vào đội hình quân giặc. Ngọn roi của Gióng đã quật giặc chết như rạ. Roi gãy, Gióng đã nhổ tre bên đường thay roi đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà bằng cả cây cỏ thân yêu chốn quê nhà.

Giặc tan, Gióng phi ngựa sắt đến chân núi Sóc, trút bỏ áo giáp sắt rồi vái chào quê hương, sau đó cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời, biến mất. Ở đây, nhân vật Thánh Gióng đã được bất tử hóa. Nhà vua phong cho Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương, ý nói Gióng là người Trời. Còn nhân dân yêu mến và kính phục tôn Gióng làm Thánh Gióng.

Tuy Thánh Gióng không phải là một nhân vật có thật. Toàn bộ hình ảnh nhân dân ta dựng lên bằng trí tưởng tượng, tiêu biểu cho truyền thống giữ nước kiên cường của dân tộc.

……..

Mời bạn đọc tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài văn mẫu lớp 6: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 4) Tuyển tập 55 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất tại website Truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Xin Chân thành cảm ơn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *