Chiều xuân của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt. Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức tác phẩm Chiều xuân Ngữ văn lớp 11, bài học tác giả – tác phẩm Chiều xuân trình bày đầy đủ nội dung, bố cục và bài văn phân tích tác phẩm.
1. Tác giả Anh Thơ:
* Tiểu sử:
– Anh Thơ (1921 – 2005), tên thật Vương Kiều Ân, bút danh Tuyết Anh, là một nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng, thuộc phong trào Thơ mới.
– Nơi sinh: Một gia đình
– Nhà thơ chưa tốt nghiệp tiểu học nhưng rất ham đọc sách và yêu thích văn học.
– Bà sống trong
– Bà bắt đầu sáng tác thơ từ khi còn nhỏ, và được nhận giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn với tập thơ đầu tiên là Bức tranh quê.
– Tháng 8 năm 1945, bà tích cực tham gia phong trào kháng chiến cách mạng, xây dựng đất nước bằng thơ, đồng thời là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
– Bà tham gia Việt Minh từ năm 1945, và đảm nhận nhiều chức vụ trong các tổ chức phụ nữ và văn học.
– Bà được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
* Sự nghiệp sáng tác:
– Tác phẩm tiêu biểu: Bức tranh quê (Thơ – 1941), Chuyện Vũ Lăng (truyện Thơ – 1957), Từ bến sông Thương (Hồi ký – 1986)…
– Những bài thơ thường miêu tả những phong cảnh giản dị, quen thuộc như những bờ tre, con thuyền, bến cảng tấp nập, bằng những bức tranh hiện thực, tinh tế, thấm đẫm tình yêu phong cảnh, lấy cảm hứng từ những bài thơ mới, có chút buồn, u sầu.
2. Tác phẩm “Chiều xuân”:
a. Xuất xứ: được rút từ tập “Bức tranh quê”, tập thơ đầu tay được in năm 1941.
b. Thể thơ: tám chữ.
c. Bố cục: 3: phần:
– Khổ thơ 1: Bức tranh chiều xuân trên bến vắng.
– Khổ thơ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.
– Khổ thơ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.
d. Nội dung khác:
– Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh đẹp và lãng mạn về mùa xuân, như hoa đào, chim én, sông Hồng, để tạo nên sự tương phản giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và của con người
– Bài thơ cũng thể hiện tình yêu quê hương và niềm tin vào tương lai của bà, khi bà mong muốn hòa bình và tự do cho đất nước.
e. Giá trị nội dung:
– Giá trị nội dung của bài thơ là thể hiện tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha của tác giả, qua những hình ảnh bình dị, quen thuộc nhưng đầy thơ mộng và độc đáo.
– Bài thơ Chiều xuân của tác giả Anh Thơ là một bức tranh quê hương đẹp đẽ, mộc mạc và thanh bình trong mùa xuân.
– Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ, gồm ba khổ thơ, mỗi khổ miêu tả một khung cảnh chiều xuân trên bến vắng, đường đê và cánh đồng.
f. Giá trị nghệ thuật:
– Giá trị nghệ thuật của bài thơ là sử dụng từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, nhiều từ láy, và thủ pháp lấy cái động để nói cái tĩnh, tạo nên một bức tranh sống động và sinh động.
3. Tóm tắt bài thơ “Chiều xuân”:
Mẫu 1:
Ba khổ thơ của bài thơ này là ba cảnh. Cảnh đầu tiên là bến tàu vắng lặng, không tiếng động, không màu sắc tươi sáng, mưa rơi rất nhẹ nhàng, bến tàu vắng tanh, có những con tàu chậm chạp bất động, bến nước trống rỗng, cành mai chỉ có những cánh hoa rơi. Một không gian yên tĩnh vào một buổi chiều mưa. Ở cảnh thứ hai, con đường kè vẫn phủ đầy bụi và mưa, nhưng có thể thấy hoạt động như bò gặm cỏ và bướm vỗ cánh. Bài thơ này mới mẻ, đầy chất thơ và đầy mộng mơ qua những khám phá mới mẻ, thú vị của nhà thơ. Cuối cùng có cảnh những người đang cào cỏ trên cánh đồng. Tác giả tìm thấy cảm hứng trong những chi tiết đời thường và khám phá vẻ đẹp bình dị của phong cảnh. Ở phần này, sự có mặt của con người khiến khoảng không gian trở nên sinh động hơn và khung cảnh bớt cô đơn hơn. Đây là bài thơ khiến ta cảm nhận được sự ấm áp của cuộc sống đời thường.
Mẫu 2:
Ba khổ thơ của bài thơ này là ba cảnh. Cảnh đầu tiên là một bến tàu trống trải, không ồn ào, không màu sắc tươi sáng. Mưa rơi rất nhẹ nhàng, trên bến tàu ít người, thuyền đi chậm, nơi vũng nước cũng không có ai, chỉ có những cánh hoa hình bầu dục đang rơi. Cảnh thứ hai là một bờ sông với đàn bò gặm cỏ và đàn bướm bay lượn. Cuối cùng có cảnh cào cỏ trên cánh đồng.
4. Đọc hiểu chi tiết bài thơ “Chiều xuân”:
4.1. Khổ 1 – Bến vắng chiều xuân:
Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
– Hình ảnh: mưa bụi, con đò, nước sông trôi, cửa hàng tranh vắng, hoa xoan tím…
→ Những hình ảnh quen thuộc miêu tả đặc điểm cảnh quan một miền quê: những bến đò vắng khách với những con đò, những quán nhỏ, những hàng cây xoan nở đầy hoa tím.
⇒ Cảnh đẹp, êm đềm, yên bình nhưng gợn buồn.
– Từ láy êm êm: Những hạt mưa rơi lặng lẽ điểm xuyết đặc cho khung cảnh, không một tiếng động, chậm rãi theo từng khoảnh khắc thời gian.
– Các từ: êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời… → Miêu tả sự yên bình, vắng lặng của một buổi chiều ở miền quê.
⇒ Đoạn thơ này khắc họa hình ảnh một cuộc sống trầm lặng, có phần ngưng lại, dường như thiếu đi màu sắc và ánh sáng.
4.2. Khổ 2 – Đường đê chiều xuân:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
– Hình ảnh: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,
– Từ ngữ mô tả hoạt động: à xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả.
→ Bức tranh này có sự chuyển đổi từ màu buồn sang màu sống động, màu xanh biếc của cỏ, màu tĩnh sang màu động.
⇒ Phong cảnh quá đẹp và yên bình, độc đáo và nên thơ, khung cảnh quen thuộc trở nên mới mẻ và sôi động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến đò bị hoang vắng.
4.3. Khổ 3 – Cuộc sống chiều xuân:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
– Xanh rờn: Màu xanh dịu dàng tràn đầy sức sống mùa xuân.
– Cô nàng yếm thắm: Cảnh vật trở nên bớt hoang vắng và ấm áp hơn.
– Các từ miêu tả hoạt động: cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua → câu thơ nói về tình yêu và miêu tả những hành động nhằm nhấn mạnh nhịp sống yên bình ở làng quê.
→ Miêu tả cuộc sống, khoan thai ở thôn quê.
– Hình ảnh sắp ra hoa: Niềm tin của người dân vào một tương lai tươi sáng sẽ nảy nở.
5. Phân tích bài thơ “chiều xuân”:
Sau khi đọc hồi ký “Từ bến sông Tường”, độc giả được biết đến Anh Thơ với tập thơ đầu tiên “Bức tranh quê”.
Đúng như tên gọi, “Bức tranh quê” là những tác phẩm khắc họa phong cảnh nông thôn thời đó một cách đầy chất thơ. Mỗi bài thơ thường gồm 12 câu có cấu trúc khá giống nhau nhưng các chi tiết lại sắc sảo, độc đáo. Tuyển tập bắt đầu bằng những bài thơ miêu tả cảnh mùa xuân, rồi đến mùa hè, mùa thu và cuối cùng là mùa đông với những bài thơ Tết. Bài thơ “Chiều Xuân” nằm ở đầu tập thơ.
Anh Thơ chọn một buổi chiều bụi để nhân cơ hội nói về đặc thù của khí hậu miền Bắc. Khi đó, nông thôn ta thưa vắng (dân số cả nước 20 triệu người), nền kinh tế tiểu quy mô nhỏ chỉ giới hạn ở làng quê, cuộc sống trầm lặng và có phần trì trệ. Vào buổi chiều mưa lạnh thế này, bến sông ở ngoại ô làng thậm chí còn vắng vẻ, tiêu điều.
Một khung cảnh không có âm thanh hay màu sắc tươi sáng. Mưa rơi rất nhẹ, bến đò vắng tanh, dù có thuyền cũng lười biếng bất động, một quán nước cũng không có người. Chỉ cần động đậy một chút, những cánh hoa xoan màu tím sẽ rụng ra tơi bời. Nhưng những cánh hoa quá nhỏ và nhẹ nên chúng lăn theo cơn mưa và chìm vào sự tĩnh lặng của bầu trời chiều.
Ba đoạn thơ là ba cảnh. Cảnh đầu tiên là một bến đò vắng. Cảnh hai là đường đê. Xung quanh cũng có bụi và mưa bay nhưng cũng có sự hoạt động của từng đàn sáo khi bay khi đậu, trâu bò gặm cỏ và “bướm bay phấp phới trong gió”. Đoạn thơ này có nhiều nét mới mẻ, nên thơ, chứng tỏ tác giả có tâm hồn tinh ý và thơ mộng nên viết “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa ” hay cái sắc “có non tràn biếc cỏ” và “đàn sáo mổ vu vơ”.
Những ý tưởng thơ này trang trí cho câu thơ tả thực và tạo ra ánh sáng sống động của cảm xúc và tưởng tượng. Khung cảnh bình dị, quen thuộc mà mọi người nhìn thấy hàng ngày bỗng dưng hiện lên mới mẻ qua đôi mắt tác giả Anh Thơ khiến người đọc bất ngờ. Đây là nơi tài năng của thơ ca nằm ở đó, có thể nhìn thấy những điều mà người bình thường không thể nhìn thấy. Chị mô tả ông thầy bói như sau:
“Bước gậy lần như những bước chiêm bao “.
Và một vệt khói buổi đầu ngày mùa hạ:
“Vươn mình lên như tỉnh giấc mơ say”.
Điều đáng quý ở Anh Thơ là chị lấy cảm hứng trực tiếp từ những khung cảnh đời thường xung quanh mình. Chị không mĩ lệ hóa, nhưng vẫn tìm thấy vẻ đẹp trong sự đơn giản ấy. Đoạn cuối bài thơ “Chiều xuân” miêu tả một cảnh tượng vẫn còn phổ biến ở thôn quê. Đó là khung cảnh một cánh đồng đang vào mùa cào cỏ. Nếu không có sự thay đổi đột ngột ở đoạn cuối này, bài thơ có thể đã có sự bằng phẳng. Nét đột biến ở đây là… một cô nàng yếm thắm, một cái giật mình:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lạnh,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa “
So với cảnh đầu bài thơ, không gian ở đây đã sống động hơn, có
Những bài thơ trong “Bức tranh quê” đều có chất lượng tương tự nhau, chỉ có một số bài là đặc biệt, nhưng mỗi bài thơ đều ý vị, vừa đẹp vừa buồn, cho chúng ta thấy quê hương cách đây nửa thế kỉ, cả vẻ đẹp lẫn nỗi nghèo đói và sự thô sơ của cuộc sống nông thôn.
Anh Thơ muốn viết ”bức tranh thành thị” sau ”bức tranh quê nhưng không
Để đọc “Bức tranh quê”, bạn không cần phải suy nghĩ sâu sắc. Anh Thơ không quen đặt những câu hỏi lớn trong thơ. Chị thích viết về những gì thấy xung quanh mình. Đặc điểm trong thơ của chị là khả năng quan sát và tất nhiên là tình cảm của đối với làng quê.