Nhà Mạc (Mạc triều) là một trong những triều đại quân chủ lớn của lịch sử Việt Nam, đánh dấu một thời kỳ quan trọng của đất nước. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài viết dưới đây về bộ máy Nhà nước, các vị Vua Triều nhà Mạc (1527 – 1593).
1. Quá trình hình thành và phát triển của nhà Mạc:
Nhà Mạc (Mạc triều) là một trong những triều đại quân chủ lớn của lịch sử Việt Nam, đánh dấu một thời kỳ quan trọng của đất nước. Triều đại này bắt đầu khi Mạc Đăng Dung ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi vào tháng 6 năm 1527, và kết thúc khi quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại nhà Mạc vào cuối năm 1592. Tổng cộng, triều đại Nhà Mạc đã tồn tại suốt gần 66 năm, trong đó có nhiều sự kiện đáng chú ý xảy ra.
Nhà Mạc được xem là một triều đại quân chủ vì họ giữ quyền lực chính trị bằng cách sử dụng quân đội. Khi Mạc Đăng Dung ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi, ông ta đã tuyên bố làm Tổng quan quân đội, và các thành viên trong triều đình phải tuân thủ mệnh lệnh của ông ta. Mặc dù triều đại Nhà Mạc chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn so với các triều đại khác, nhưng triều đại này đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử Việt Nam.
Trong suốt thời gian triều đại Nhà Mạc, nhiều vấn đề quan trọng đã xảy ra. Một trong những vấn đề đó là việc Nhà Mạc phải đối mặt với các bè phái trong triều đình. Trong triều đình, có nhiều bè phái khác nhau, mỗi bè phái có thế lực và quyền lực khác nhau. Nhà Mạc đã dùng quân đội để dẹp các bè phái này và giành được quyền lực tối cao trong triều đình.
Trong triều đại Nhà Mạc, cũng có nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến quốc tế. Trong năm 1558, nhà Mạc đã gửi quân tiêu diệt các tù địch lên phía bắc, và đã chiếm được Hàm Tử (nay là Hàm Yên, tỉnh Thái Nguyên). Đây là một trong những chiến công quan trọng của nhà Mạc trong thời gian này. Tuy nhiên, sau đó, quân nhà Mạc đã bị quân nhà Lê đánh bại tại khu vực Lạng Sơn.
Ngoài ra, sau khi triều đại Nhà Mạc kết thúc vào năm 1592, hậu duệ nhà Mạc vẫn tiếp tục chiến đấu với nhà Hậu Lê. Với sự giúp đỡ của các tướng quân như Mạc Kính Vũ, nhà Mạc đã tiếp tục chiến đấu trong một thời kỳ trung hưng kéo dài tới năm 1677, chứng tỏ tầm ảnh hưởng của triều đại này trải dài suốt nhiều thế kỷ.
Tóm lại, triều đại Nhà Mạc đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử Việt Nam. Với việc sử dụng quân đội để giành quyền lực và đối mặt với các bè phái trong triều đình, Nhà Mạc đã tạo ra một thời kỳ mới trong lịch sử Việt Nam. Dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, triều đại này vẫn góp phần quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
2. Bộ máy Nhà nước nhà Mạc (1527 – 1593):
2.1. Chính quyền trung ương:
Nhà Mạc phải tuân theo pháp độ của nhà Lê trong việc
Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước thời Lê ở triều đình trung ương thì trên cùng là vua. Dưới vua có sáu bộ, cùng với sáu bộ là sáu khoa: Trung thư khoa, Hải khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa và Bắc khoa. Năm 1465, các khoa được đổi tên phù hợp với với tên các viện: Lại khoa, Hộ khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa và Công khoa. Năm sau (1466), sáu viện lại được đổi trở lại thành sáu bộ và đặt thêm sáu tự là Đại lý tự, Thái thường tư, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự và Thượng bảo tự. Cùng với sáu bộ, sáu khoa, sáu tự còn có các cơ quan giúp việc nhà vua như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Đông các…
Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ở trung ương vào thời Mạc thì trên cùng cũng là vua và dưới vua là các chức quan trong hàng Tam thái rồi đến sáu bộ, bên cạnh sáu bộ có sáu khoa và sáu tự. Sáu bộ có nhiệm vụ chia nhau trông coi và thừa hành mọi công việc trong nước. Sáu khoa kiểm soát việc làm của sáu bộ. Còn sáu tự đặt ra là để trông coi những công việc phụ không thuộc quyền hạn của sáu bộ. Ngoài ra còn có các cơ quan giúp việc nhà vua như Ngự sử đài, Hàn Lâm viện, Đông các…
Tuy nhiên, mặc dù biên niên sử không ghi chép cụ thể về tổ chức chính quyền và các cơ quan trong bộ máy nhà nước thời Mạc, tuy nhiên, tư liệu trên văn bia đương thời đã cung cấp thêm những thông tin quan trọng về điều này.
Thời Mạc, nhà nước được tổ chức theo hình thức đạo – phủ – huyện – xã. Tại mỗi đơn vị hành chính của cấp chính quyền cơ sở từ đạo trở xuống, nhà Mạc đều cho đặt các quan đến trấn trị. Ngoài ra, tư liệu trên văn bia còn ghi nhiều về những đơn vị hành chính cấp huyện và xã. Đặc biệt, văn bia còn ghi thêm một đơn vị hành chính mới là cấp tổng nối liền giữa cấp huyện và xã.
Tư liệu trên bia thời Mạc còn cho biết thêm đơn vị nữa là giáp. Đơn vị giáp không phải đến thời Mạc mới có mà đã có từ các thời kỳ trước, nhưng ở thời Mạc văn bia đã ghi rất rõ về những tên giáp trong các xã, thôn thời Mạc mà ở các thời kỳ trước tài liệu chỉ thông tin một cách gián tiếp.
Với số lượng người và hộ trong xã như vậy ở thời Mạc chứng tỏ số dân cư trong các làng xã mà nhà Mạc quản lý không nhiều bằng thời Lê Thánh Tông trước đó, chỉ tương đương với cấp tiểu xã của thời Lê Thánh Tông.
Dưới thời Mạc, hệ thống chính quyền từ trung ương tới địa phương không có sự ràng buộc chặt chẽ như thời Lê sơ, một phần do sự thông thoáng cởi mở từ phía nhà nước về mặt tư tưởng và một phần quan trọng hơn là do tình hình chiến sự xảy ra liên miên ở thời kỳ này. Nhà Mạc chỉ đủ sức quản lý vùng đất thuộc quyền kiểm soát của mình với những đơn vị hành chính có sẵn từ trước chứ không thể kiểm soát chặt chẽ và cai quản toàn bộ đất nước từ trên xuống dưới như thời Lê được. Đó cũng là nét riêng biệt của nhà Mạc so với nhà Lê.
Tổng kết lại, tư liệu trên văn bia và các tài liệu lịch sử cung cấp thông tin về tổ chức bộ máy chính quyền của nhà Mạc ở triều đình và các đơn vị hành chính cấp huyện, xã. Cũng như cho thấy sự khác biệt giữa cách tổ chức của nhà Mạc và nhà Lê.
2.2. Chính quyền địa phương:
Trong thời kỳ Mạc, tổ chức chính quyền ở địa phương vẫn giữ nguyên cấu trúc cơ bản của thời Lê sơ. Tuy nhiên, vào năm 1541 (khi nhà Mạc đã lên nắm quyền được 14 năm), khi vua Minh Phong Mạc Đăng Dung đang làm An Nam Đô thống sứ ty Đô thống sứ, ông đã lưu ý đến đất 13 lộ được chiếu theo tên đất cũ.
Nhà Mạc đã giữ nguyên tên của 13 đạo Thừa tuyên được đặt từ thời Lê Thánh Tông, vì từ thời Lê Thánh Tông không còn đơn vị lộ nữa. Tư liệu trên bia thời Mạc cũng cho biết điều này.
Tuy nhiên, nhà Mạc đã sử dụng đơn vị hành chính đứng đầu cấp chính quyền địa phương là đạo và đặt tên cụ thể cho một số đạo như Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Hưng Hoá, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Ninh Sóc, Thanh Hoá, Quảng Nam… Những đạo này vẫn giữ tên đạo cũ của thời Lê Thánh Tông.
Dưới đạo là phủ, huyện và xã. Văn bia cũng ghi nhiều về các đơn vị hành chính cấp huyện và xã. Đặc biệt, văn bia còn ghi thêm một đơn vị hành chính mới là cấp tổng nối liền giữa cấp huyện và xã.
Tư liệu trên bia thời Mạc còn cho biết thêm đơn vị nữa là giáp. Đơn vị giáp không phải đến thời Mạc mới có mà đã có từ các thời kỳ trước, nhưng ở thời Mạc, văn bia đã ghi rất rõ về các tên giáp trong các xã, thôn thời Mạc. Trong các thời kỳ trước đó, tài liệu chỉ thông tin một cách gián tiếp.
Từ nguồn tư liệu trên bia Mạc, chúng ta cũng có thể biết được rằng trong một tổng của thời Mạc bao gồm nhiều xã và mỗi xã trung bình có khoảng 3 đến 4 thôn, mỗi thôn trung bình có khoảng từ 3 đến 4 giáp, mỗi giáp trung bình có khoảng từ 30-40 hộ và mỗi xã trung bình có khoảng từ 80 đến 100 hộ. Với số lượng người và hộ trong xã như vậy ở thời Mạc, chứng tỏ số dân cư trong các làng xã mà nhà Mạc quản lý không nhiều bằng thời Lê Thánh Tông trước đó, chỉ tương đương với cấp tiểu xã của thời Lê Thánh Tông.
Tại mỗi đơn vị hành chính của cấp chính quyền cơ sở từ đạo trở xuống, nhà Mạc đều cho đặt các quan đến trấn trị.
Dưới thời Mạc, hệ thống chính quyền từ trung ương tới địa phương không có sự ràng buộc chặt chẽ như thời Lê sơ, một phần do sự thông thoáng cởi mở từ phía nhà nước về mặt tư tưởng và một phần quan trọng hơn là do tình hình chiến sự liên miên xảy ra ở thời kỳ này. Nhà Mạc chỉ đủ sức quản lý vùng đất thuộc quyền kiểm soát của mình với những đơn vị hành chính có sẵn từ trước chứ không thể kiểm soát chặt chẽ và cai quản toàn bộ đất nước từ trên xuống dưới như thời Lê được. Điều này cũng là nét riêng biệt của nhà Mạc.
Với những chi tiết về cấu trúc và
3. Các vị Vua Triều nhà Mạc (1527 – 1593):
Dưới đây là các vị vua và thời gian từng trị vì trong triều đại nhà Mạc:
– Minh Đức (1527-1530)
– Đại Chính (1530-1540)
– Quảng Hòa (1540-1546)
– Vĩnh Định (1547)
– Cảnh Lịch (1548-1553)
– Quang Bảo (1554-1561)
– Thuần Phúc (1562-1566)
– Sùng Khang (1566-1578)
– Diên Thành (1578-1585)
– Đoan Thái (1586-1587)
– Hưng Trị (1588-1590)
– Hồng Ninh (1591-1592)
– Vũ An (1592-1593)