Ca dao hài hước là gì? Nghệ thuật trong bài ca dao hài hước?

Ca dao hài hước là gì? Nghệ thuật trong bài ca dao hài hước?
Bạn đang xem: Ca dao hài hước là gì? Nghệ thuật trong bài ca dao hài hước? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Ca dao là những lời thơ trữ tình dân gian, được sáng tác và viết nên để thể hiện thế giới nội tâm của con người và khi kết hợp với âm nhạc tạo nên vần thơ có nhịp, có điệu giống như bài hát. Vậy trong ca dao, ca dao hài hước là gì? Có những nghệ thuật nào được sử dụng trong những câu ca dao hài hước? 

1. Ca dao hài hước là gì? 

Ca dao hài hước là những bài ca dao được viết nên và tạo ra nhằm mục đích để giải trí và phê phán những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. Ca dao hài hước thể hiện trí thông minh, khiếu hài hước, tinh thần lạc quan và yêu đời của người lao động.

Ca dao hài hước mang đậm tinh thần lạc quan, yêu đời, tin yêu vào cuộc sống của người lao động dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. 

Ca dao hài hước nhằm mục đích gây tiếng cười, nhưng cũng có nhiều trường hợp  tiếng cười được dùng để giễu cợt thói hư tật xấu của con người và phê phán, đả kích những kẻ xấu trong xã hội.

2. Giá trị của ca dao hài hước:

Giá trị nội dung:

Ca dao hài hước mang vào mỗi câu ca dao tiếng cười với tinh thần lạc quan, yêu đời cùng triết lí nhân sinh lành mạnh của những người nhân dân lao động Việt Nam mà thông qua đó, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội.

Giá trị nghệ thuật:

‐ Sử dụng lối nói cường điệu, phóng đại, đối lập. 

‐ Thể hiện xuất sắc các nhân vật với những chi tiết nghệ thuật độc đáo và tính khái quát cao. 

‐ Cách nói chuyện hài hước, tế nhị. Sử dụng ngôn ngữ đời thường, nhưng thâm trầm và sâu sắc. 

‐ Có nhiều liên tưởng độc đáo, bất ngờ và thú vị.

3. Phân loại ca dao hài hước:

Ca dao hài hước có hai loại, bao gồm: 

Tiếng cười trào phúng tự trào (lấy cái nghèo của mình để cười mình, thơ hóa cái nghèo để lạc quan vui vẻ) là tiếng cười rất cần thiết trong cuộc sống, phù hợp với đặc điểm hài hước, ưa trào lộng của nhân dân ta.

Tiếng cười giải trí: Chọn những chi tiết tiêu biểu, những tình tiết hóm hỉnh, cường điệu phóng đại… để tạo nên những nét hóm hỉnh, hài hước.

4. Những bài ca dao hài hước, châm biếm về cuộc sống:

1) Chú tôi hay tửu hay tăm

Hay uống chè đặc hay nằm ngủ trưa 

Ban ngày thì muốn trời mưa

Ban đêm thì muốn cho thừa trống canh. 

2) Bà già đi chợ Cầu Đông

Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?

Thầy bói gieo quẻ nói rằng 

Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.

3) Con cò chết rũ trên cây

Cò con mở lịch xem ngày làm ma. 

4) Cà cuống uống rượu la đà

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần

Chào mào thì đánh trống quân

Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.

5) Học hành ba chữ lem nhem 

Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua.

6) Rung rinh nước chảy qua đèo

Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng.

7) Hòn đất mà biết nói năng 

Thì thầy Địa lý hàm răng chẳng còn

Tử vi xem số cho người

Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

8) Muốn ăn gắp bỏ cho người

Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình.

9) Còn duyên kén cá chọn canh 

Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ

Còn duyên kén những trai tơ

Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.

10) Số cô chẳng giàu thì nghèo

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

5. Những câu ca dao châm biếm về thầy Bói, nạn mê tín dị đoan:

1) Chập chập thôi lại cheng cheng

Con gà sống thiến để riêng cho thầy

Đơm xôi thì đơm cho đầy

Đơm mà vơi đĩa thì thầy không ưng.

2) Phù thủy, thầy bói, lái trâu

Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn.

3) Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ

Mồm thì lẩm bẩm tay xờ đĩa xôi.

4) Tiền buộc dải yếm bo bo

Trao cho thầy Bói đâm lo vào mình.

5) Nhất hào, nhì hào, tam hào

Chó chạy bờ rào! Quẻ này có động!

Nhà này có quái trong nhà

Có con chó mục cắn ra đằng mồm

Nhà bà có con chó đen 

Người lạ nó cắn, người quen nó mừng

Nhà bà có cái cối xay 

Bốn chân xuống đất, ngõng ngay lên trời.

6) Phú quý sinh lễ nghĩa, ăn no thì đắt bói.

7) Thừa tiền thì đem mà cho 

Đừng dại xem Bói rước lo vào mình. 

6. Một vài bài phân tích về ca dao hài hước:

Câu 1: (Trang 91 – SGK Ngữ văn 10) 

Đám cưới là sự kiện quan trọng của đời người nên thường được chuẩn bị chu đáo và chu đáo. Nhưng tiệc cưới trong ca dao có nhiều nét khác thường:

Lời của chàng thanh niên: Tuy nhà nghèo nhưng vì quý tiệc cưới và thương bạn trăm năm, chàng trai đã lên rất nhiều các kế hoạch, dự định sang trọng trong lễ cưới và sau đó tìm một cái cớ rất hợp lý để từ bỏ kế hoạch đó. Với cách nói này, chàng trai thể hiện tấm lòng mình coi ngày cưới rất quan trọng, nhưng cũng vì hoàn cảnh không như ý muốn mà anh nhận được sự cảm thông, chia sẻ và cả những tràng cười sảng khoái bởi trí thông minh của mình.

Những lý do chàng trai đưa ra như sau: 

Muốn dẫn voi → sợ quốc cấm

Muốn dẫn trâu → sợ họ máu hàn

Muốn dẫn bò → sợ họ nhà nàng co gân.

‐ Câu trả lời của cô gái: Trước dự định cưới của chàng trai, cô gái vẫn bằng lòng 

“Chàng dẫn thế, em thấy làm sang

Một con chuột béo đối với cô là đã sang rồi.”

Và ở màn thách cưới, cô gái không đòi hỏi gì nhiều: 

“Người ta thách lợn thách gà

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang”

Qua đó, ta thấy được nét đẹp trong tâm hồn cô gái: Không chỉ  chấp nhận mà cô ấy còn hãnh diện cho dù vật dẫn cưới chỉ là một con chuột béo! Ngay cả trong hoàn cảnh nghèo khó, cô cũng dễ dàng cảm thông và chấp nhận điều đó. Nhưng còn đẹp hơn đó là lời thách cưới của cô: nhà tôi thách nhà khoai lang. Đó không chỉ là một lời mời cưới vô tư, điềm đạm mà còn là một tâm hồn lạc quan yêu đời, một triết lý sống của người lao động – không mặc cảm mà còn biết vươn lên từ cái nghèo, tìm thấy niềm vui và đặc biệt là luôn biết tận  hưởng cuộc sống thanh cao của mình.

Lời thách cưới của cô gái thật đáng yêu và đáng trân trọng, cho dù nó chỉ là lời đùa cợt trong chặng hát cưới của dân ca. Điều đó cho thấy đời sống của người lao động tuy nghèo về vật chất nhưng luôn đầm ấm, vui tươi về tinh thần. 

Nghệ thuật ca dao:

– Lối nói cường điệu, khoa trương: “dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò”… (đây là lối nói thường thấy trong ca dao, nhất là khi bạn “tưởng tượng” ra những lễ cưới thật sang trọng, quyền quý, linh đình của các chàng trai đáng yêu.

– Sử dụng lối nói giảm dần: Voi –  trâu –  bò – chuột (chàng trai)

– Củ to –  củ nhỏ –  củ mẻ – củ rím, củ hà (cô gái)

– Cách nói đối lập được sử dụng: Dẫn voi / sợ quốc cấm Dẫn trâu / sợ họ máu hàn Dẫn bò / sợ họ co gân Lợn gà / khoai lang

– Kết hợp chi tiết hài hước, dí dỏm:  “Miễn là” có thú bốn chân “Dẫn” con chuột béo, / mời dân, mời làng.

Câu 2: (Trang 91 – SGK Ngữ văn 10)

Các bài 2,3,4: Tiếng cười trong ba bài ca dao khác với tiếng cười ở bài 1, ở mỗi bài là sự chế giễu một loại người trong xã hội:

Bài 2. Để giễu cợt những kẻ đàn ông yếu đuối không xứng đáng với sức trai khỏe mạnh. Tiếng cười nổ ra nhờ nghệ thuật cường điệu và thủ pháp đối lập. Có thể có những chàng trai yếu ớt, nhưng không ai  yếu đến mức chỉ vác được… hai hạt vừng. Ngoài ra, điều hài hước là bạn phải khuỵu gối khom lưng (cố gắng hết sức) để mang hai hạt vừng. 

Bài 3. Không khuyến khíc, giễu cợt những kẻ lười biếng, kẻ không có chí lớn. Ca dao sử dụng biện pháp so sánh làm tăng độ tương phản giữa “chồng người” và “chồng em”. Hình ảnh người đàn ông “ngồi bếp sờ đuôi con mèo” là điển hình của người đàn ông lười biếng, chỉ biết ngồi trong góc nhà bám lấy vợ. Bài hát vừa hài hước vừa mang tính phê phán sâu sắc. 

Bài 4. là bài ca dao chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Tiếng cười của ca dao lại được xây dựng chủ yếu dựa trên nghệ thuật cường điệu và những liên tưởng phong phú của tác giả dân gian. Đằng sau tiếng cười hài hước, mang tính chất giải trí, tác giả dân gian vẫn muốn thể hiện sự châm biếm nhẹ nhàng về người phụ nữ thô lỗ, vụng về, vô duyên, đỏng đảnh đảnh – một loại người không phải không có trong xã hội. Tác giả dân gian đã nhìn họ bằng con mắt nhân hậu, thông cảm, thông qua cái nhìn của người đàn ông thương vợ, để mọi tính xấu ở nhân vật đều trở thành tốt (lông mũi / râu rồng trời cho; ngáy o o/cho vui nhà; ăn quà/đỡ cơm; rác rơm /hoa thơm).

Câu 3: (Trang 91 – SGK Ngữ văn 10)

Qua các bài ca dao trên , chúng ta có thể thấy ca dao hài hước thường sử dụng những biện pháp nghệ thuật như sau:

‐ Lối nói khoa trương, phóng đại, sự tương phản đối lập.

‐ Hình ảnh hài hước, chi tiết chứa đựng ý nghĩa sâu sắc

‐ Cách nói vô cùng hóm hỉnh, ý nhị.

‐ Ngôn ngữ đời thường nhưng mang tính thâm thúy và sâu sắc.

‐ Sử dụng nhiều liên tưởng độc đáo, bất ngờ và thú vị.