Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai

Bạn đang xem: Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai:

* Mở bài:

Giới thiệu truyện ngắn Làng, về nhân vật ông Hai

* Thân bài:

Cảm xúc, tính cách và phẩm chất của Ông Hai được thể hiện chân thực qua từng hoàn cảnh.

⇒ Khoe khoang là cách thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào nhất đối với quê hương của ông Hai.

– Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng

Khi nghe tin làng theo giặc.

– Diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai

⇒ Qua sự suy sụp tâm lý của ông Hai chúng ta thấy được tình yêu sâu sắc của ông đối với quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy được lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.

Niềm vui của ông Hai khi tin đi theo giặc của cả làng được chấn chỉnh.

⇒ Tinh thần yêu nước của ông Hai, tình cảm chân thành của một người nông dân giản dị, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến mức vui mừng báo tin nhà mình bị giặc đốt.

* Kết bài:

Cảm nhận chung về nhân vật ông Hai và truyện ngắn Làng

2. Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai – mẫu 1:

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai cảm thấy vô cùng xấu hổ. Tác giả đã miêu tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng của nhân vật Hai trước cái tin dữ đó. Đầu tiên, nghe tiếng người đàn bà tản cư nói ra, anh Hai bàng hoàng và đến sững sờ”Cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được”.  Kể từ giây phút đó, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, dày vò bởi cảm giác mình là kẻ phản bội. Nghe thấy tiếng gầm gừ của quân phản bội Việt Nam, ông cúi mặt bỏ đi.

Về đến nhà, ông nằm xuống giường, tủi thân nhìn các con. “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?” Ông vô cùng tức giận và phẫn nộ trước những kẻ phản bội trong làng. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng Chợ Dầu, thương mình vì phải mang tiếng là dân làng Việt gian.

Những ngày tiếp theo, ông Hai không đi đâu say xỉn, chỉ lo lắng ở góc nhà, lắng nghe tình hình bên ngoài. Ông sống trong nỗi sợ hãi, xấu hổ và tủi nhục. Mỗi lần nhìn thấy người Tây, người Việt gian, cam-nhông là ông lại “lủi ra một góc nhà nín thít”.

Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm thấy tủi nhục và sợ hãi vì không còn đường sống: “Biết đi đâu bây giờ”. Bị đẩy vào ngõ cụt, tâm trạng của Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ trở về làng là một ý kiến hay, nhưng ông hiểu rõ rằng mình sẽ phản bội cách mạng và phản bội Bác Hồ. Rồi ông quyết định theo cách riêng của mình: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Rõ ràng, lòng yêu nước ngày càng rộng hơn, bao trùm tình cảm với quê hương. Nhưng ông vẫn không thể hoàn toàn buông bỏ được tình cảm của mình với ngôi làng. Chính vì vậy mà ông càng đau đớn và xấu hổ hơn.

Trong tâm trạng chán nản, bế tắc, ông chỉ biết nỗi đau lòng của mình qua những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta nhận thấy tình cảm sâu sắc, bền bỉ của ông Hai với làng Chợ Dầu, 1 tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai.

Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai vô cùng vui mừng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ông cũng thay đổi thái độ với các con: mua bánh rán để chia cho chúng. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người tin Tây đã đốt nhà ông. Nhà bị cháy nhưng anh không hối hận, lại lấy đó là điều đáng tự hào vì đây là bằng chứng duy nhất cho thấy lòng trung thành của gia đình ông và làng với cuộc kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn liền với lòng yêu nước của ông. Ông biết đặt lòng yêu nước lên trên tình cảm cá nhân. Phải chăng đó là vẻ đẹp thể hiện cá tính của con người ông Hai nói riêng và những người nông dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

3. Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai – mẫu 2:

Ông Hai cũng như bao người nông dân ở nông thôn luôn gắn bó với làng mình. Ông yêu quý và tự hào về làng Chợ Dầu và thường kể về làng một cách sôi nổi, hào hứng. Vừa đi vừa nhớ làng, theo dõi tin tức chiến tranh, về thăm Chợ Dầu.

Tình yêu làng quê của ông càng được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn trong những hoàn cảnh đầy thử thách. Kim Lân đưa nhân vật vào một vấn đề gay gắt để bộc lộ chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu theo giặc. Bước ra khỏi phòng thông tin, ông vừa vui mừng, phấn khởi trước tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, mong được nghe tin vui, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông Hai bàng hoàng, đau đớn tột cùng: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.

Về đến nhà, ông chán nản đến mức “ngã xuống giường” nhìn các con mà rưng rưng nước mắt: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm ghét những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt tay và rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông đau đớn nghĩ đến cảnh “người dân phẫn nộ, trả thù bọn Việt gian bán nước”. Nhiều ngày liền, ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng luôn tưởng tượng mọi người đang chú ý và bàn tán về chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành nỗi sợ hãi thường trực trong ông. Ông đau đớn, cảm thấy xấu hổ như thể mình là người có lỗi…

Hoàn cảnh của ông càng trở nên bế tắc và tuyệt vọng hơn khi bà chủ nhà cố gắng thuyết phục gia đình ông rằng họ không tiếp đón dân làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, trong thoáng chốc ông đã có ý định trở về làng nhưng rồi lại gạt bỏ ngay vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.

Trong tâm trạng bị đè nén và bế tắc ấy, ông chỉ có thể tìm thấy niềm an ủi khi tâm sự với cậu con trai nhỏ. Nói chuyện với con thực chất là chia sẻ cảm xúc của lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:”Thế nhà con ở đâu?”, “Thế con ủng hộ ai?”. Lời của đứa trẻ vang vọng trong tâm trí ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,”Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”.

Những gì ông đã biết thì ông vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Suy nghĩ của ông giống như những lời thề sắt đá. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông dành cho làng quê thật sâu sắc và quý giá. Dù cả làng Việt gian nhưng ông vẫn trung thành với cuộc kháng chiến và với Bác Hồ.

May mắn thay, tin đồn về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông vui mừng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi cùng người báo tin, khi trở về, “khuôn mặt buồn bã mỗi ngày của ông càng tươi sáng hơn”. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất hạnh phúc. Bởi, trong cảnh hoang tàn của chính quê hương mình là sự hồi sinh danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là niềm vui lạ lùng, thể hiện một cách đau đớn và cảm động tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm.