Khổ 1, 2 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên cho chúng ta thấy rõ hình ảnh ông đồ thời xưa. Đây chính là nét văn hóa truyền thống từ lâu đời của nhân dân ta mỗi dịp tết đến xuân về. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8.
1. Cảm nhận khổ 1, 2 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên hay:
Bài thơ được viết vào năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ được viết trong bối cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Thời kỳ này cũng là thời kỳ các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào đĩa vãng quá khứ cùng sự tiếc thương vô cùng. Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho thời xưa. Ông đồ thường xuyên xuất hiện trên đường phố vào mỗi dịp Tết đến xuân về để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi mỗi dịp Tết đến ông đồ luôn xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đây là thời đại đắc ý, thời kỳ vàng son của ông Giống như vòng tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi khi năm cũ chuyển sang năm mới, khi hoa đào hồng rực nở khỏe sắc thắm cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố.
Hãy thử tưởng tượng có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện dưới những bông đào cùng tiết trời se lạnh, tiếng bước chân tấp nập của mọi người tạo nên một bức tranh vô cùng tươi vui. Các từ “mỗi” và “lại” thể hiện phần nào nhịp điệu đều đặn ấy.
Hoa đào và ông đồ có mối liên hệ mật thiết với nhau, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của mực, màu đỏ của giấy khiến bức tranh trở nên rất sống động. Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngưỡng mộ và tháng phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà còn dành cho ông một sự tôn trọng. Ông đồ phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Chỉ những người thông thạo và am hiểu về Hán học và Nho giáo mới có thể viết được những chữ viết tài hoa như vậy. Lời so sánh tu từ “như phượng múa rồng bay” thể hiện sự ngưỡng mộ, kính trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông đồ.
Đây cũng là sự trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước. Chơi chữ là thú vui thể hiện tính cách thanh cao của người thưởng thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được coi là những nghệ sĩ tài hoa bởi nét chữ của họ thể hiện cái tâm và cái chí của người
Những nét chữ cong cong, uốn lượn một cách khéo léo, tài tình dưới đôi tay của một người có học sẽ khiến bất cứ ai cũng muốn thuê ông viết cho một câu đối. đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, mọi người đổ xô đến với ông vì ngưỡng mộ những nét chữ phóng khoáng của ông. Cả người viết chữ và người chơi chữ dường như đều có sự đồng cảm sâu sắc bởi họ đều là những người yêu và biết trân trọng cái đẹp.
2. Cảm nhận khổ 1, 2 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên hay nhất:
Đây là phần thứ hai bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Một bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn kiệt tác trong phong trào thơ mới trước năm 1945. Hình tượng thơ dòng thơ buồn tê tái cứ thấm vào hồn người.
Đã bao năm trôi qua, không còn những mùa xuân rực rỡ, với những ngày phố phường tấp nập, khi ông đồ ‘hoa tay thảo những nét’, ‘như phượng múa rồng bay’, không còn thời gian huy hoàng ‘bao nhiêu người thuê viết’, ‘tấm tắc ngợi khen tài’. Một quá khứ lừng lẫy tương phản với một hiện tại cô đơn và lẻ loi. Một câu hỏi tự vẫn nảy sinh như một tiếng thở dài chán nản, cay đắng trước sự thay đổi của vạn vật, sự lạnh lùng của con người. Thời gian trôi chậm và buồn bã, ngày càng trở nên nhiều hơn trống rỗng hơn.
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?”
Vũ Đình Liên đã lấy sự vật để đặc tả hồn người, tình người tê tái:
“Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu”.
Vì nỗi đau của ông đồ già, ‘giấy đỏ’ cũng trở nên phai nhạt, và ‘buồn không thắm’. Nghiên mực cũ sặc mùi mực đen nay đã trở thành nghiên mực sầu tội nghiệp; Mực khô, chết và ứ đọng một cách đáng buồn. Giấy đỏ và mực in được nhân cách hóa để thể hiện nỗi cô đơn, nỗi buồn của những con người tài hoa sinh ra vào thời điểm không thích hợp, khi chữ Hán đã thất truyền.
Những mùa hoa đào nối tiếp đi qua… Giữa một không gian rét mướt, chỉ còn thấy hình bóng một ông đồ già trơ trọi đáng thương:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay”.
Ba chữ ‘vẫn ngồi đây’ miêu tả một nhân vật tĩnh tại, vô cảm, vô hồn đã bị lãng quên trong trái tim và cuộc sống của con người. Còn ai quan tâm đến ông đồ già này, ‘qua đường không ai hay’. Dư vị của bài thơ là nỗi buồn cay đắng, xót xa!
Bài thơ “Chợ Đồng” của tác giả Tam Nguyên Yên Đổ ghi lại nhiều cảnh buồn của phiên chợ Tết ở quê những năm đầu thế kỷ trước. Người đi chợ buồn bã trong tâm trạng Mưa bụi mà vẫn hơi lạnh, chỉ nghe thấy tiếng của một nỗi buồn bã mà thôi:
“Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Ta lại bắt gặp làn mưa bụi trong bài thơ “ông đồ”. Một thân phận hiện hữu đáng buồn và đáng thương, xót xa và sầu tủi:
“Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay…
Giấy đỏ phủ lá vàng, có phải là ‘buồn không thắm’? Màu vàng nhạt của lá rụng và cơn mưa lạnh cuối đông dường như phủ kín đất trời, khiến lòng người buồn bã, đau xót. “Lá vàng” và ‘mưa bụi bay’ là hai hình ảnh tượng trưng cho sự vang bóng một thời, để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Bóng dáng ông đồ bất động như một bóng người cổ xưa, nhạt dần trong nền vàng của lá rụng, màu trắng đục của mưa mùa đông đang nhạt dần.
Thơ hay luôn để lại điều gì đó trong lòng người đọc. Nỗi thương cảm xót xa chính là cái tình, tính nhân văn của bài thơ còn đọng lại trong tâm hồn chúng ta. Hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng nhưng sâu sắc, gợi cảm. Thương ông đồ già, thương một lớp người tài hoa, thương cho nền văn hóa Nho giáo truyền thống của quê hương đã mai một.
Ông đồ già “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?
3. Cảm nhận khổ 1, 2 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên đặc sắc:
Sự suy tàn của Nho giáo khiến cho nhiều một lớp người trở thành
Khi những lời cao quý của các vị thánh hiền không còn chỗ đứng, chúng phải bị đem ra vỉa hè, phố phường, trở thành món hàng… người ta kinh ngạc, bàng hoàng và đau buồn trước ánh hào quang chói lọi một thời. Tình cảm ấy được thể hiện trong bài thơ, tạo nên một sự tương tác đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Đó là những hình ảnh, ấn tượng đã ăn sâu vào trí nhớ của chàng trai khi còn rất trẻ. Khi Tết đến, xuân về, là sự tuần hoàn của hoa đào, ông đồ, nghiên mực và giấy đỏ tạo nên nét thiêng liêng, độc đáo của không gian
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Đó là dư vang của thời đại nhưng cũng là hình ảnh buồn trong sự chống chọi vô vọng. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để tranh nhau mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau lòng làm sao.
Ở hai khổ thơ đầu, tác giả kính trọng và ngưỡng mộ hình ảnh ông đồ xưa trong những ngày huy hoàng của mình. Thông qua hình ảnh ông đồ, Vũ Đình Liên còn thể hiện tình yêu chân thành của mình đối với những giá trị truyền thống tốt đẹp của đất nước.
4. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ “Ông đồ”:
4.1. Giá trị nội dung:
Bài thơ Ông đồ với hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, thể hiện sâu sắc với tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm thương cảm, nuối tiếc của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
4.2. Giá trị nghệ thuật:
– Thể thơ 5 chữ kết hợp với ngôn ngữ bình dị và súc tích.
– Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi.
– Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng.
– Sử dụng biện