Bài viết dưới đây là tổng hợp các mẫu Cảm nhận về bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt hay chọn lọc hay nhất. Chúc các bạn có thêm nhiều tài liệu để ôn tập thật tốt. Cùng tham khảo nhé.
1. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu bài thơ Bếp lửa
1.2. Thân bài:
– Hình ảnh bếp lửa chực chờ được đốt lên, dịu dàng gợi nhớ về người bà nấu bếp trong lòng tác giả.
– Chị từng trải qua nhiều âu lo, da dẻ, sần sùi theo năm tháng
– Bếp lửa gắn liền với tuổi thơ của cháu và bà:
+ 8 năm cùng ngoại vào bếp khói cay cay sống mũi
+ Được cô dạy chăm chỉ học hành
+ Được thấy bố mẹ chăm sóc em hàng ngày
+ Tiếng hú gọi con về bên mình
– Tình yêu của tôi ở phương xa:
+ Dù ở đâu có cơ sở vật chất mới đầy đủ, tôi cũng không thể quên những năm tháng khắc khoải với bà ngoại năm xưa.
+ Nỗi nhớ bà luôn thường trực trong lòng em hàng ngày, hàng sáng.
+ Nỗi nhớ nhà hòa quyện với nỗi nhớ quê hương, đất nước.
1.3. Kết luận:
Cảm nghĩ về bài thơ
Xem thêm: Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa chọn lọc hay nhất
2. Cảm nhận về bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt hay chọn lọc hay nhất:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”
Chẳng hiểu sao hai câu thơ ấy theo tôi suốt mấy năm xa quê. Mỗi khi nghĩ về chị, mỗi khi về nhà, tôi lại nghĩ đến – nhớ đến “Bếp Lửa” của Bằng Việt.
Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt đang du học. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng từ khi ra đời cho đến nay “Bếp lửa” luôn có một vị trí riêng trong thơ ca Việt Nam. Bài thơ được đưa vào tập Hương thơm – Bếp lửa năm 1968. Đây cũng được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất về tình cháu gái trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ theo mạch cảm xúc từ hồi ức đến hiện tại, từ thương nhớ đến suy ngẫm sâu sắc. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi lại những kỉ niệm xưa để người cháu trưởng thành hơn, chiêm nghiệm hơn và định vị bà rõ hơn, rồi gửi gắm nỗi nhớ mong gặp bà ở một cảnh xa. .
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi lên nỗi nhớ da diết của con cháu:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba từ “một bếp lửa” được lặp lại ở đầu bài thơ bởi hình ảnh này đã quá quen thuộc với Làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỉ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỉ niệm về người bà tảo tần sớm hôm bên gian bếp nhỏ. Như vậy, có thể coi bếp lửa là ngọn nguồn của mạch cảm xúc của nhà thơ về người bà của mình. Từ “chập chờn” ở câu trước đi đôi với “hầu iu” ở câu sau, vừa gợi cảm giác về ánh lửa bập bùng, ẩn hiện trong sương sớm, vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và một trái tim ấm áp. mặt sau của nhóm lửa. Bếp lửa đã thắp lên trong tôi những kỉ niệm về cô, bồng bềnh cùng nỗi nhớ thương da diết. Cuộc tình ngắn ngủi kết thúc bằng tình cảm của đứa cháu trai. Chữ “tình” đã trải ra từng chữ để rồi dành trọn vào sâu thẳm trái tim người đọc.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những kỉ niệm về những năm tháng tôi ở bên ngoại. Đầu tiên là kỉ niệm của đứa cháu lớn lên:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Bài thơ vừa là kí ức về tuổi thơ dữ dội của ông vừa là lời nhắc nhở về nạn đói khủng khiếp năm nào được ám chỉ. Những câu thơ nhắc nhở chúng ta: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người dân trong làng đi chợ, đi làm đồng lại không gặp ba xác chết nằm bên vệ đường. Khí thải lên mùi rác và mùi xác người” trong “Vợ Bùi” của Kim Lân. Và những đứa cháu lớn lên trong hoàn cảnh ấy. lưng gầy” đã diễn tả rất chân thực sự đói khát, mệt mỏi, kiệt sức mà cái đói đã kịp thời cướp đi của những kẻ lừa đảo. Tuy nhiên, hơn cả cái đói, cái nghèo, hình ảnh mà tôi nhớ nhất chính là làn khói – khói của những bếp lò bập bùng , những kỉ niệm về những năm tháng nghèo khó, vất vả mà tôi đã cùng bà trải qua.Và bao năm tháng trôi qua, những kỉ niệm ấy vẫn làm tôi ứa nước mắt mỗi khi nhớ về. Vẫn là hình ảnh bếp lửa, ngọn đèn lờ mờ bếp lửa nhưng nó đã khơi dậy biết bao cảm xúc chân thật, bao cảm xúc, bao kỷ niệm, bao nhiêu nước mắt của người đọc, thơ là đi từ trái tim đến trái tim và tôi tin những vần thơ này của Bằng Việt đã làm được điều đó.
Những kỉ niệm về cô theo tôi từng ngày, gắn liền với quá trình lớn lên của tôi:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Nạn đói chưa qua đã có giặc ngoại xâm. Chiến tranh ác liệt, cha mẹ đều bận rộn với công việc. “Cha mẹ bận không về”, nên quãng thời gian tôi lớn lên bên ngoại. Không còn hình ảnh của ngọn lửa, không còn mùi khét trong mắt tôi, ký ức của tôi bây giờ là tiếng kêu của những con chim tu hú trên bầu trời. Mười một câu thơ mà năm lần vang vọng tiếng chim. Có lúc nghe mơ hồ, xa xăm của “người nông dân trên cánh đồng”, có lúc gần gũi, thân thương “sao thiết tha quá”, có lúc cồn cào, đứt quãng, có lúc ưu tư như than thở, tiếng chim không chỉ gợi lên một không gian khoáng đạt, khoáng đạt. , nhưng nó cũng gợi lên sự lẻ loi, lẻ loi của người bà và người cháu. Họ – một già, một trẻ đã phải nương tựa vào nhau như thế nào để sống qua những tháng ngày gian khổ của chiến tranh. Nhưng dù nghèo khổ, khổ cực nhưng người bà luôn hết lòng chăm lo cho các cháu: “Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, cháu nuôi cháu ăn học”.
Những kỉ niệm về cô lớn lên, sáng dần lên trong nỗi nhớ làng, quê hương:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh đã để lại biết bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình nghĩa, tình làng nghĩa xóm. Trong những ngày xa quê, ký ức về những người hàng xóm đáng kính đã cùng ông bà trải qua những năm tháng chinh chiến cứ hiện về trong tâm trí tôi. Thông hiểu “Anh viết thư kể chuyện này/ Chỉ nói nhà yên bề gia thất!” thể hiện hình ảnh người phụ nữ cần mẫn, duyên dáng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bà vẫn kiên cường làm điểm tựa tinh thần cho con cháu, là hậu phương vững chắc cho những người xông pha chiến trường.
Từ hình ảnh bếp lửa và những dụng cụ gắn liền với cuộc sống, bài thơ chuyển sang “ngọn lửa” rác với những tầng ý nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu, của sức sống cháy bỏng, của tình yêu thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một ngọn lửa” nối liền nhau đã tạo nên nhịp thơ khỏe khoắn, mạnh mẽ nhưng cũng rất lung linh và đủ sức sưởi ấm trái tim người đọc. Từ đó, kí ức tuổi thơ dần dần hướng về bà nội với tất cả lòng biết ơn. Sau bao nhiêu vất vả, khổ đau, bà vừa là người giữ lửa, vừa là người truyền lửa cho những đứa cháu của mình. Bà đã “ nhen nhóm tình yêu thương” trong tôi, truyền cho tôi tình yêu thương, cho tôi hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong tôi biết bao điều tốt đẹp.
Khổ thơ cuối là lời tâm sự, tâm sự của người cháu chưa lớn. Dù khoảng cách có xa xôi, dù “Khó trăm tàu, lửa trăm nhà, buồn vui trăm phương” “Mà còn mơ quên nhắc/ – Mai anh vào bếp?. ..” . Tôi sẽ luôn nhớ đến cô với tất cả tình yêu, lòng biết ơn và nỗi nhớ.
Không phải ngẫu nhiên mà từ khi ra đời cho đến hôm nay, “Bếp lửa” luôn có một chỗ đứng riêng. Bằng những hình ảnh chân thực và tất cả tình cảm chân thành, Bằng Việt đã thực sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Xem thêm: Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa
3. Cảm nhận về bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt hay chọn lọc ấn tượng nhất:
Tuổi thơ của mỗi người đều gắn liền với muôn vàn kỉ niệm với người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, tình cảm dành cho nhau để sau này khi lớn lên lại tiếp tục hành trang với những kỉ niệm khi trưởng thành . cuộc sống. Nhiều tác phẩm văn học, thơ, truyện ngắn được khơi nguồn từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình quê hương,… Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ ” Ngọn lửa” với tình cảm và nỗi nhớ nhung về người bà của mình trong thời gian học tập tại Liên Xô năm 1963. Hình ảnh người cháu và người bà đã trải qua cuộc sống gian khổ nhưng chan chứa tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, đùm bọc trong những ngày còn cha mẹ. xa công việc và hạnh phúc viên mãn bên ngọn lửa ấm áp yêu thương.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Hình ảnh bếp lửa được khắc họa ngay từ câu thơ đầu tiên qua điệp khúc “bếp lửa” và từ “chờ như” khiến ta có thể hình dung ra một khung cảnh mộc mạc, giản dị mà ấm áp tình người. đầy tình cảm. Bếp lửa nhen nhóm bao nỗi nhớ bà, chất chứa ngọn lửa bao kỉ niệm của cô cháu gái bé bỏng và bà ngoại. Người bà nhân hậu đã thắp lên ngọn lửa yêu thương ấy, giống như đôi tay bà dịu dàng nâng niu đàn cháu, hình ảnh người bà như làn khói bếp chiều sớm, hình ảnh người bà ân cần Nắng mưa bà thắp sáng dậy trong lòng đứa cháu nỗi nhớ trống vắng trong trẻo. Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa trong sáng, tác giả đã khắc họa một lò sưởi chất chứa bao kỉ niệm, một bếp lửa chan chứa yêu thương, một bếp lửa thắp sáng hình ảnh của em. Sang đến những câu tiếp theo, chất chứa nhiều nỗi buồn như phút vỡ òa “Thương em biết bao nắng mưa”, tác giả chạnh lòng, xót xa trước nỗi nhớ hình bóng cô dù mưa hay nắng. , nhưng vẫn lo cho con từng bữa ăn. Cơm áo, bao vất vả cuộc đời bà trải qua không một lời vì cháu, bà âm thầm làm tất cả vì cháu, tất cả đều là sự hy sinh thầm lặng của người bà kính yêu. Qua đây ta thấy được rằng trong lòng tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết bao, có cả một trời thương nhớ bà, một câu “Cháu yêu bà” cũng sẽ để lại ý nghĩa sâu sắc trong lòng chúng ta.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Trong đoạn văn này, kí ức không phải là những hình ảnh dịu dàng như “đợi nắng mai” hay “đời nồng ấm” mà là những kỉ niệm nhớ hình ảnh trong tâm trí tác giả, con cháu ông và người bà tội nghiệp đã trải qua bi kịch. . nạn đói năm 1945. Không khí đìu hiu, thoát đói nhờ những người bà yêu quý đã phần nào nguôi ngoai, bà từng sớm hôm lượm từng củ khoai, từng đào sắn cho con ăn cho bớt đói. Thành ngữ “rồi mòn mỏi” nghe như một tiếng kêu đau lòng, ám ảnh của một đứa trẻ luôn thường trực trong tiềm thức, sự sợ hãi. Khác với nhiều người nghĩ về tuổi thơ của mình như một mảng màu hồng, đối với tác giả đó là một mảng màu xám xen lẫn màu đỏ của máu từ nỗi đau đói khát, khát khao khủng khiếp, trận đói lịch sử đã giết chết hơn hai triệu người. Nhưng có bà luôn bên cạnh, có bếp khói làm vơi đi phần nào nỗi đau đói rét, ký ức vẫn mang hơi ấm, quên đi khổ đau. Chi tiết “khói làm cay mắt em” khi nhìn thấy đứa trẻ kỳ quặc trạc tuổi nó cố gắng chụp ảnh công việc đói khổ của chị với làn khói bếp của chị, và chi tiết “cay mũi” khiến làn khói phảng phất. . Cố giấu mùi tanh trong các ngóc ngách, chua xót vì trẻ nhỏ đã phải chịu cảnh “đói ăn đói rét” đang len dần vào từng mảnh ký ức thơ ngây, mang theo nỗi sợ hãi về cái đói. , mang theo cảm giác thèm thuồng từng củ khoai, củ sắn, để rồi những món ăn bình dị cũng trở thành “món ngon thiên hạ”.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
“Tám năm” lâu lắm rồi, sau lưng tôi và bà vẫn thắp lên ngọn lửa yêu thương, hơi ấm, ngọn lửa của cuộc đời, quãng thời gian ấy đi qua bao gian khổ, nhưng chỉ cần có bà là tôi vẫn bình yên như thế. Tuổi thơ của đứa cháu gắn liền với ngọn lửa yêu thương của bà ngoại, gắn với tiếng tu hú ngoài đồng như thúc giục người nông dân nhanh chân ra đồng cho đỡ khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú cũng như tiếng chuông ngân: “Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe”. Từ “tu hú” được lặp lại ba lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả bởi trong văn học nghệ thuật, con tu hú là biểu tượng của một sự kiện hư cấu nhưng da diết không xuất hiện. Tiếng tu hú trở thành kỉ niệm nhẹ nhàng đầy tình cảm giữa tác giả và bà.
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? “
Những câu thơ mộc mạc, giản dị ấy vẫn cho thấy niềm vui của bà khi được chăm cháu khi “mẹ cha bận việc chưa về”. Hình ảnh bà vừa là người cha, người mẹ quan tâm, chăm sóc cho con cái, vừa là người thầy dạy dỗ học trò, cô cũng là cả bầu trời yêu thương của tác giả. Cấu trúc “bà-cháu” thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó giữa bà và cháu. Hình ảnh “bà dạy em làm người”, dạy em làm người, dạy em biết tự lập cho cuộc sống của mình, dạy em biết yêu thương gia đình, hình ảnh “bà chăm em ăn học”. “Cô dạy tôi từng nét chữ, cho tôi kiến thức để mai sau giúp ích cho đất nước. “Nhóm lửa tưởng khó cho bà” các em nhỏ lo lắng cho bà, thấy bà cơ cực chúng cùng bà nhóm lửa giúp bà đỡ đi một đoạn vuốt ve. Sau đó là những lời trách móc của những đứa trẻ ngây thơ sao lại đòi về với bà, giúp đỡ bà đỡ công việc, để bà đỡ cô đơn buồn tủi nhưng lại luôn hăng hái ra đồng chơi.