“Bích Câu kì ngộ” dịch là “Cuộc gặp gỡ kì diệu tại Bích Câu. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi lòng tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ bất ngờ của Tú Uyên với người mà anh đã thấy trong giấc mơ. Dưới đây là cảm nhận về Tú Uyên gặp Giáng Kiều chọn lọc hay nhất, mời bạn đọc cùng theo dõi.
1. Cảm nhận về Tú Uyên gặp Giáng Kiều chọn lọc hay nhất :
Khi nói về truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ,” nhiều người cho rằng tác phẩm vẫn có sức hấp dẫn với nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ, bởi đó là một truyện thơ Nôm hoàn toàn thuần Việt. Từ các địa danh đến tên của nhân vật, đều rất gắn liền với bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh của kinh thành cổ đại Thăng Long, tác giả đã diễn đạt một câu chuyện tình yêu tươi đẹp giữa Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi lòng tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ bất ngờ của Tú Uyên với người mà anh đã thấy trong giấc mơ.
“Bích Câu kì ngộ” dịch là “Cuộc gặp gỡ kì diệu tại Bích Câu.” Tên “Bích Câu” trong tiêu đề đề cập đến một địa điểm văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Đó là nơi thường xuyên được các vua và quý tộc thăm viếng, cũng là trung tâm hội tụ của các danh nhân và học giả. Tú Uyên, một người thư sinh nghèo, cũng đến Thăng Long để học tập. Một lần, khi anh đang tham quan chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên tình cờ gặp Giáng Kiều và ngay lập tức bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của cô, nhưng trước khi anh kịp làm quen, cô gái tuyệt đẹp này đã biến mất. Sau đó, Tú Uyên tình cờ thấy một người bán tranh tranh tố nữ, và trên một bức tranh, anh nhận ra hình ảnh giống hệt người con gái mà anh đã gặp trước đó. Từ đó, Tú Uyên bị cuốn hút bởi ký ức về Giáng Kiều và dành nhiều thời gian để ngắm nhìn bức tranh đó.
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Mở đầu đoạn trích, chúng ta được đưa vào không gian tĩnh lặng của “song hồ,” nơi chàng học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tưởng tượng về người mình yêu. Cụm từ “Sớm khuya” thể hiện sự tuần hoàn không ngừng của thời gian, nhấn mạnh sự liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên không ngừng nhớ về cô và không thể quên. Anh đã quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ tập trung vào việc ngắm nhìn bức tranh cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ của anh đối với Giáng Kiều mạnh mẽ đến mức anh cảm thấy như cô gái trong bức tranh thật sự hiện diện trước mắt. Sự tương tư này được thể hiện qua các hành động cụ thể của Tú Uyên. Cặp số “một” và “hai” cùng với các từ “chung” và “thêm” thể hiện sự quý trọng và yêu quý của Tú Uyên đối với bức tranh của Giáng Kiều. Thậm chí, khi ăn, anh cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng rằng người trong mộng đang đứng trước mặt anh, thế nên anh viết thơ và mời rượu để kỷ niệm.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình
Cặp từ đối lập “gần” và “xa,” cùng với hai động từ “tưởng” và “nghĩ,” thể hiện sự thấu hiểu và niềm nhớ thương dâng trào trong trái tim của Tú Uyên. Anh thú vui trong việc tiếp xúc với bức tranh nhưng mỗi lần anh nhìn vào nó, niềm nhớ về Giáng Kiều lại càng sâu sắc. Bức tranh đẹp đến mức khiến anh cảm nhận như cô gái đang ở rất gần, nhưng thực tế, khoảng cách vẫn còn rất xa. Các hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu,” “Ngàn sương,” và “lá khô” tạo ra bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên, tràn đầy sự thơ mộng. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng mơ lan tỏa khắp nơi như đang rải đàn bạc xuống thế gian, tạo nên một tấm thảm đầy lá vàng bao phủ cả khoảnh sân. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm trạng của con người được tạo nên. Trong văn học, buổi chiều thường liên quan đến nỗi nhớ, và những dòng thơ này thể hiện tình cảm niềm nhớ một cách ngọt ngào và đầy ý nghĩa.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
Với Tú Uyên, chiều thu mang đến cảm giác thương và nhớ về tình yêu. Chàng thư sinh đã đánh mất mình trong dòng nước sông Tương, mê mải tưởng tượng về hình ảnh của nàng thiếu nữ đẹp đẽ. Hình tượng sông Tương liên quan đến một truyền thuyết nổi tiếng, khi Vua Thuần mất đi và hai người vợ của ông, Nga Hoàn và Nữ Anh, đã khóc thảm trên bờ sông Tương. Từ đó, sông Tương trở thành biểu tượng của sự nhớ nhung:
Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ
Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cảm thấy quyết tâm và khao khát của Tú Uyên khi muốn thể hiện tình cảm sâu sắc của mình. Tú Uyên trải lòng về tình yêu của mình và hoàn cảnh cá nhân. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm” liên quan đến việc suy tưởng và ảo mộng về tình yêu, thể hiện nỗi nhớ không ngừng nghỉ và luôn hiện hữu trong tâm trí của anh. Từ “đã chồn” thể hiện sự mệt mỏi và nỗi nhớ của Tú Uyên đã biến anh trở thành “người bệnh tương tư”. Lời thơ gần như là một cuộc trách móc và than vãn mà anh dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên tỏ ra quyết tâm trách móc cô gái vì tại sao cô “điểm phấn tô son” khiến người quân tử “ruột héo gan mòn”. Từ “ai” được lặp lại hai lần, chỉ rõ sự đồng nhất giữa hai con người và nỗi nhớ không dứt.
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức anh tách mình hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài, không bước ra khỏi căn phòng nửa bước. Anh sẵn sàng đổi cả nghìn vàng chỉ để thấy nụ cười của cô. Từ “nghìn” ở đây thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và không thể so sánh được với bất kỳ điều gì khác. Câu thơ đặt ra một câu hỏi tu từ, nhấn mạnh tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên còn muốn mở cung trăng để được ngắm nhìn dung mạo của cô, vượt qua giới hạn của thời gian và không gian.
Thông qua những biểu tượng và hình ảnh của thiên nhiên, sự đối lập của từ và câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện sự da diết của nỗi nhớ và tình yêu mạnh mẽ mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu đó cũng là biểu tượng cho khát vọng của con người, mong muốn tìm kiếm hạnh phúc và thoát ra khỏi hiện thực buồn tẻ.
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Một ngày, khi Tú Uyên trở về nhà sau giờ học, anh phát hiện một bữa cơm sẵn sàng trên bàn. Bữa ăn ấy mang một “hương vị khác thường,” phát ra một mùi thơm ngọt ngào như hoa. Tú Uyên cảm thấy lạ và bắt đầu nảy sinh nghi ngờ. Sáng hôm sau, anh
Khi Tú Uyên chào đón Giáng Kiều và được cô giới thiệu về bản thân, sự xuất hiện của Giáng Kiều gợi lên hình ảnh của những nàng tiên, như cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam, với phẩm hạnh thanh khiết và tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là một cô gái đầy đoan trang và dịu dàng trong lời nói của mình.
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Giáng Kiều tự giới thiệu mình là một phụ nữ mong manh như “bồ liễu” và như “khách thanh tiêu” ở trên trời, được biết với danh hiệu Tiên Thù và tên gọi Giáng Kiều. Mối “tơ điều” đã nối kết cô và Tú Uyên, và họ đã “Ba sinh đã nặng vì duyên.” Từ lời nói của Giáng Kiều, có thể cảm nhận được rằng tình yêu giữa Uyên và Kiều là một sự kết nối trước định, được thế lực trời đất phê duyệt.
Khi lắng nghe Giáng Kiều nói, Tú Uyên cũng thể hiện những suy tư đã nắm chặt trong lòng từ lâu: “Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi?” Không chỉ sở hữu vẻ đẹp ngoại hình, lời nói êm đềm và phẩm cách lịch lãm, Giáng Kiều còn là một phụ nữ trung thành, kiên định trong tình yêu và có lòng tự trọng cao đối với danh dự của bản thân.
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!
Tác giả đã sử dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế, trong đó công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, và người nào bắt được quả cầu sẽ trở thành người kén rể, để thể hiện tấm lòng chân thành của Giáng Kiều đối với Tú Uyên. Việc sử dụng hai từ “quyết” và “thề” trong hai dòng thơ liền nhau làm tôn thêm tính nghiêm trọng và chân thành của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân và hạnh phúc. Cô khẳng định tình cảm trong sáng của mình hoàn toàn
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”
Giáng Kiều đã đến gặp “tiền nhân” – những duyên nợ từ kiếp trước để giải thích về việc nàng xuống trần. Từ đáy lòng, Giáng Kiều thực sự coi Tú Uyên là “bạn tri kỉ”. Mối quan hệ tri âm, tri kỷ này không bao giờ bị phai nhạt bởi khoảng cách, vì vậy nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trung thành.
Sau cuộc gặp gỡ và cuộc trò chuyện giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, họ bước vào hạnh phúc của tình yêu đôi, nơi mà Giáng Kiều đã sử dụng phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Trong một khoảnh khắc, lều cỏ biến thành một lâu đài huyền bí. Ánh dương ban mai lan tỏa rọi rực, chiếu sáng toàn bộ không gian. Những người tham gia vui vẻ, sôi nổi, trong trang phục lịch lãm và tươi tắn. Từ các từ như “Nhởn nhơ,” “Lả lơi,” “Đong đưa,” cùng với những động từ như “nói, cười,” “đua,” “khoe,” tạo ra một bầu không khí phấn khích, hạnh phúc do rượu và tình bạn đem lại, cả quan khách và chủ nhà đều tràn đầy niềm vui.
Do đó, đoạn văn này thể hiện nỗi nhớ của Tú Uyên về Giáng Kiều và cuộc gặp gỡ của họ, cũng như biểu tượng cho khát khao hạnh phúc của đôi tình nhân và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Sử dụng
2. Tác giả và tác phẩm:
2.1. Tác giả:
Vũ Quốc Trân (? – ?), người làng Đan Loan, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nhưng sống ở phường Đại Lợi (một phần phố Hàng Đào thuộc Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa giữa thế kỷ XIX. Vũ Quốc Trân sống đồng thời với Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát. Ông đi đỗ mấy khoa tú tài nên thường được gọi là “cụ (ông) Mền Đại Lợi”.
2.2. Tác phẩm:
“Bích Câu kỳ ngộ” có nguyên tác bằng chữ Hán cùng tên được chép trong Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm. Đây là một chuyện tình huyền thoại, xuất phát từ Thăng Long, nay là Hà Nội, và đã được nhiều tác giả khác nhau viết lại và
3. Nhận xét về tác phẩm:
“Bích Câu kỳ ngộ” là một câu chuyện tình yêu đầy hoang đường, nhưng bên dưới tầm nhìn tình yêu đó là những vấn đề xã hội sâu sắc. Tác phẩm phản ánh một quan điểm về cuộc sống và mong muốn thoát khỏi thực tại xung quanh… Quan điểm này một phần nào đó thể hiện cái nhìn của tác giả về xã hội trong bối cảnh đất nước đang trải qua những biến động, chiến tranh, và rất nhiều khó khăn.
Tác phẩm cũng phản ánh sự biến đổi tâm hồn của những con người trong bối cảnh đó: họ muốn rời bỏ kiến thức truyền thống và tìm đến đạo Phật và đạo Đạo.
Về mặt hình thức, “Bích Câu kỳ ngộ” thể hiện một câu chuyện hoàn toàn Việt Nam, với tên gọi và tình tiết nằm trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Điều này giúp tác phẩm truyền tải được một