“Chính sách kinh tế mới” của V.I.Lênin vẫn mang giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại to lớn, là tiền đề để Đảng ta xây dựng và phát triển nền tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn tìm hiểu bài viết Chính sách cộng sản thời chiến và chính sách kinh tế mới để hiểu rõ hơn
1. Từ chính sách “Cộng sản thời chiến”:
Sau khi
Dựa theo đường lối kinh tế trong “Luận cương tháng Tư” của V.I.Lê-nin đưa ra, Chính quyền Xô-viết đã thực hiện:
– Quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất của địa chủ, nhà lao và giáo đường, để lại một phần (14%) xây dựng quốc doanh, và một phần lớn đem phân chia cho nhân dân lao động. Sắc lệnh về quốc hữu hoá ruộng đất được ban hành ngày 8-11-1917, đánh dấu sự chấm dứt cuộc cách mạng kinh tế – xã hội ở Nga, mở đường cho thời kỳ quá độ lên CNXH.
– Thực hiện chế độ giám sát của công nhân: sắc lệnh này được ban hành ngày 14-11-1917 và từ đó đến cuối tháng 11-1917 toàn bộ những xí nghiệp lớn và vừa trong những ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ trọng yếu nhất đều có những cơ quan giám sát của công nhân. Đó là bước quá độ giúp công nhân quen với việc quản lí xí nghiệp, ngăn ngừa các hành động phá hoại của tư bản.
– Nhà nước quốc hữu hóa các lĩnh vực: đường sắt, hầm mỏ, ngoại thương, bưu chính, ngân hàng lớn và công nghiệp. Từ tháng 11-1917 đến tháng 10-1918, tổng cộng có 3.668 cơ sở đã chuyển giao cho người lao động (trong thời kì này, chỉ các ngành công nghiệp nặng và cơ sở có hơn 50 công nhân mới được quốc hữu hóa. Các cơ sở có ít hơn 50 công nhân sẽ phải chờ giai đoạn sau để quốc hữu hóa).
– Những cơ sở công nghiệp, thương mại, vận tải, bưu chính đã quốc hữu hoá, được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Hội đồng kinh tế tối cao (thành lập ngày 2-12-1917).
Nhằm thực hiện kế hoạch tiến công vào cách mạng XHCN, vào đầu năm 1918, V.I. Lê-nin đã đề xuất một chiến lược phức tạp. Ông đã đặt ra kế hoạch không chỉ phục hồi nền kinh tế mà còn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn quá độ, gọi là kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đến cuối năm 1918, việc thực hiện kế hoạch đã phải tạm hoãn do bùng nổ của nội chiến.
Vào cuối năm 1918, cuộc nội chiến đã bùng phát tại Nga, khi các phần tử địa chủ và tư sản bị áp bức đã tiến hành biểu tình chống lại Chính quyền Xô-viết. Đồng thời, từ phía ngoại quốc, 14 nước đế quốc dẫn đầu bởi Anh và Pháp đã can thiệp quân sự nhằm loại bỏ Nhà nước Xô-viết còn trẻ non. Cuộc nội chiến và sự can thiệp từ nước ngoài đã khiến cho tình hình ở Nga trở nên ngày càng phức tạp và khó khăn hơn.
Trước tình hình đó, V.I.Lê-nin nêu khẩu hiệu: “Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù” và thi hành Chính sách “cộng sản thời chiến”.
Nội dung cơ bản của Chính sách “cộng sản thời chiến” bao gồm các vấn đề như:
+ Trưng thu lương thực thừa của nông dân, Nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội.
+ Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm không những đối với đại công nghiệp mà cả trung và tiểu công nghiệp.
+ Quốc hữu hóa cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5 công nhân trở lên (nếu có động cơ) và 10 công nhân trở lên dù không có động cơ.
+ Cấm mua bán và trao đổi hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là lúa mì. Áp dụng hệ thống tem phiếu và trực tiếp phân phối hàng hóa cho người tiêu dùng, loại bỏ ngân hàng nhà nước.
+ Đặt chế độ lao động cưỡng bức với nguyên tắc: “Không làm thì không ăn”.
Nhờ thực hiện Chiến lược “Cách mạng Xanh” trong thời kỳ chiến tranh, Nhà nước Xô-viết đã tạo nguồn thực phẩm để cung ứng cho binh lính và người dân, đảm bảo chiến thắng trước kẻ thù bên ngoài. Trong việc đánh giá chính sách này, V.I. Lê-nin đã từng phát biểu: Trong bối cảnh của cuộc chiến, chính sách đó về cơ bản là đúng.
Bắt đầu từ sáng kiến vĩ đại của công nhân đường sắt và sau đó được công nhân cả nước hưởng ứng, khí thế lao động của quần chúng được lên cao: “Ngày thứ bảy lao động Cộng sản chủ nghĩa” được thực hiện trên toàn nước Nga.
Ngay trong thời kỳ này, V.I.Lê-nin đã tổ chức lại toàn bộ nền kinh tế, trên cơ sở sử dụng năng lượng điện, xây dựng kế hoạch điện khí hóa nước Nga – kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn đầu tiên của Liên Xô: quy định 10 – 15 năm thay đổi bộ mặt của nước Nga, cải tạo nền kinh tế về cơ bản, đặt nền móng vững chắc cho CNXH.
Chính sách “Cách mạng Xanh” không thể coi là một phương pháp kinh tế chắc chắn cho giai đoạn chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ đơn thuần là một biện pháp tạm thời. Bởi vậy, việc tiếp tục thực hiện chính sách này trong bối cảnh nội chiến và sự can thiệp từ ngoại quốc đã đẩy nền kinh tế Nga vào khủng hoảng nghiêm trọng. Năm 1920, so với năm 1913, sản lượng nông nghiệp giảm còn một nửa; công nghiệp lớn giảm chỉ còn một phần bảy; ngành vận tải gặp khó khăn do thiếu than và thiếu phương tiện; tình trạng mất mùa đã diễn ra, khiến nhiều người dân phải đối mặt với đói kém và khốn khó. V.I. Lê-nin đã so sánh nền kinh tế Nga thời điểm đó như một người bị đánh đòn “thập tử nhất sinh”, chỉ có thể di chuyển bằng đôi nạng.
2. Chính sách kinh tế mới:
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga bước sang thời kỳ thiết lập chế độ xã hội mới. Do đó, Chính sách “cộng sản thời chiến” đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử bất đắc dĩ của nó, nay không thể tiếp tục được thực hiện, bởi vì chính sách này không hề khuyến khích nông dân hăng hái tăng gia sản xuất, nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với Chính sách “cộng sản thời chiến” (biểu hiện rõ ràng ở cuộc bạo động Cron – Xtat gần Lê-nin-grat); khối liên minh công nông có nguy cơ tan rã. Cho nên cần thiết phải tiếp tục thực hiện Cương lĩnh xây dựng CNXH mà V.I.Lê-nin đưa ra vào đầu năm 1918, phải khôi phục các quan hệ kinh tế xã hội giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Do những đòi hỏi trên, Đại hội X của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga (họp từ ngày 8-3 đến ngày 16-3-1921) đã chủ trương thay thế Chính sách “cộng sản thời chiến” bằng Chính sách kinh tế mới (NEP).
Nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới là:
+ Bãi bỏ chế độ thu mua lương thực và thay thế vào đó là thuế lương thực.
+ Các xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá, nay cho phép tư nhân mướn hay mua lại để kinh doanh sản xuất (đặc biệt là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng).
+ Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp
+ Cho phép đẩy mạnh lưu thông hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho phép thương nhân được tự do kinh doanh (đặc biệt trên lĩnh vực hàng tiêu dùng) nhằm góp phần khôi phục kinh tế, củng cố trật tự lưu thông tiền tệ trong nước, đẩy mạnh quan hệ hàng hoá – tiền tệ, phát triển kinh tế hàng hoá.
+ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh.
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn. Đối với mỗi nước tiến lên CNXH luôn cần thiết vận dụng nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới, ví dụ như về quan hệ hàng hoá – tiền tệ, phát triển kinh tế hàng hoá, xây dựng liên minh công nông, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần v.v. .
Chính sách kinh tế mới được thực hiện trong từng ngành kinh tế và coi việc khôi phục nông nghiệp làm nhiệm vụ trọng tâm, là vấn đề cấp bách trước mắt. Nhờ vậy kinh tế Xô-viết ngày một phát triển. Đến cuối năm 1922 Liên Xô đã vượt qua được nạn đói và cuối năm 1925, nông nghiệp Liên Xô đã vượt mức trước chiến tranh, cung ứng 87% sản phẩm.
Ngành công nghiệp được khôi phục. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75,5% và đến năm 1926 đã khôi phục được 100%. Kế hoạch công nghiệp hoá tiến hành có kết quả, ngành luyện kim và cơ khí đã vượt mức trước chiến tranh, nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và ngành thực phẩm đã đạt và vượt mức trước chiến tranh.
Trong việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lê-nin coi thương nghiệp là “mắt xích” quan trọng trong chuỗi mắt xích những sự biến đổi lịch sử mà Nhà nước phải dốc toàn sức mình để nắm bắt lấy nó. Do đó, thương nghiệp đã được củng cố vững chắc (về ngoại thương: tổng mức lưu chuyển hàng hoá năm 1926 đã bằng 2 lần năm 1924; về ngoại thương: thiết lập quan hệ mua bán với hơn 40 nước – thực hiện nguyên tắc độc quyền ngoại thương).
Ngân sách nhà nước đã được củng cố mạnh mẽ: năm 1925 – 1926 ngân sách nhà nước tăng lên gần 5 lần so với năm 1922 – 1923.
Năm 1921, ngân hàng nhà nước được thành lập lại, đã thực hiện các lần đổi tiền tệ vào những năm 1922, 1923. Giá trị đồng rúp đã được tăng lên đáng kể, có tác động tích cực đối với việc thực hiện chế độ kế hoạch hoá, giúp khôi phục nhanh nền kinh tế.
Thực tiễn trên đã bác bỏ các luận điểm của kẻ thù của Nhà nước Xô-viết và của các phe hoài nghi khác về Chính sách kinh tế mới như một chính sách thiên về chủ nghĩa tư bản.
3. Việc vận dụng ở Việt Nam:
3.1. Vận dụng Chính sách kinh tế mới trong tình hình mới:
Chính sách Kinh tế mới của Việt Nam từ những năm 1986 là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử kinh tế và chính trị của nước này. Chính sách Kinh tế mới, đề xuất bởi Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã chấm dứt mô hình kinh tế tập trung quản lý, bao cấp và mô hình kinh tế không hướng tới thị trường. Thay vào đó, nó đưa ra hướng đi mới với mục tiêu phát triển một
Chính sách này đã tạo ra nền tảng cho việc phát triển kinh tế Việt Nam trong thập kỷ sau đó, bằng cách tạo điều kiện cho nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế khác nhau, từ kinh tế nhà nước đến kinh tế tư nhân, tạo sự cân đối giữa vai trò của chúng. Đặc biệt, chính sách này khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân.
Mục tiêu chính của chính sách Kinh tế mới là đưa nền kinh tế Việt Nam từ tình trạng kém phát triển và đói nghèo trở thành một nền kinh tế đa dạng, hiện đại và bền vững. Điều này được thể hiện qua việc thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn, tập trung vào sự ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Đồng thời, chính sách này cũng đặt ra mục tiêu xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích đầu tư và phát triển các ngành dịch vụ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và thay đổi nhanh chóng, chính sách Kinh tế mới đã giúp Việt Nam thích nghi và phát triển. Việc kết hợp các yếu tố xã hội chủ nghĩa và thị trường trong một mô hình kinh tế độc đáo đã giúp đưa Việt Nam từ một nước nghèo lạc hậu trở thành một nền kinh tế năng động và đầy triển vọng trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, việc thực hiện chính sách Kinh tế mới vẫn đối diện với nhiều thách thức và phải liên tục được cân nhắc, điều chỉnh để đảm bảo rằng phát triển kinh tế cùng với sự công bằng xã hội và bền vững là tiêu chí quan trọng.
3.2. Đặc trưng trong tư duy kinh tế của Việt Nam:
Những chuyển đổi quan trọng trong tư duy và hướng đi của kinh tế Việt Nam sau khi thực hiện Chính sách Kinh tế mới:
– Tư duy từ hiện vật sang hàng hóa và thị trường: Trước đây, nền kinh tế tập trung quản lý, bao cấp với sự thiếu thốn trong sản xuất và tiêu dùng. Đổi mới tư duy kinh tế đã đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, khuyến khích thị trường tự do hoạt động và giúp kích thích sự cạnh tranh, tạo điều kiện cho việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
– Tư duy từ bao cấp đến chủ động và sáng tạo: Đổi mới tư duy kinh tế đã thúc đẩy sự chủ động và sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh. Thay vì dựa vào hệ thống bao cấp, doanh nghiệp và cá nhân được khuyến khích tìm kiếm cơ hội mới, phát triển sản phẩm và dịch vụ mới, tạo ra giá trị gia tăng.
– Tư duy mở và hội nhập quốc tế: Việc mở cửa kinh tế và tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế đã làm thay đổi cách suy nghĩ của người dân và doanh nghiệp. Việc tiếp xúc với kinh nghiệm và cơ hội từ thế giới bên ngoài đã thúc đẩy sự sáng tạo và nâng cao hiệu suất kinh doanh.
– Tư duy đa sở hữu và đa thành phần: Thay vì tập trung quản lý và sở hữu tập trung, đổi mới tư duy kinh tế đã thúc đẩy sự đa dạng hóa trong các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng nhưng cùng với đó, kinh tế tư nhân và nhiều thành phần kinh tế khác cũng được khuyến khích phát triển.
– Tư duy đa dạng hóa hình thức phân phối: Đổi mới tư duy kinh tế đã mở cửa cho nhiều hình thức phân phối khác nhau. Các hình thức phân phối theo vốn, tài sản và giá trị đã xuất hiện, tạo ra sự linh hoạt và sự cạnh tranh trong thị trường.
– Tư duy đa chủ thể làm kinh tế: Đổi mới tư duy kinh tế đã thúc đẩy sự đa dạng hóa các chủ thể làm kinh tế. Không chỉ có nhà nước, mà còn có doanh nghiệp tư nhân,
Tóm lại, đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam đã định hình lại cách suy nghĩ và hướng đi của kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng và bền vững, đồng thời mở cửa cho việc hội nhập quốc tế và tận dụng cơ hội trong môi trường toàn cầu hóa.