Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là sự cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, là một trong những chiến công chói lọi, là kết quả của sự hội tụ nhiều nhân tố, trong đó có trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam.
1. Nguyên nhân dẫn đến Chiến dịch Điện Biên Phủ:
Âm mưu của thực dân Pháp:
Điện Biên Phủ có vị trí chiến lược quan trọng – Điện Biên Phủ là một thung lung lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng núi Tây Bắc, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông Dương và Đông Nam Á nên Pháp cố nắm giữ.
Thực dân Pháp được sự giúp đỡ của đế quốc Mĩ cả về mặt kinh tế, quân sự và các chuyên gia về quân sự. Dựa vào viện trợ của Mĩ, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành trung tâm của kế hoạch Na-va,thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương gồm 49 cứ điểm, 16200 quân lính, 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội vận tải, 1 đại đội tăng M24, có cả sân bay với một phi đội 12 máy bay thường trực. Để bảo vệ phía Tây Bắc – Thượng Lào và nhằm phá vỡ cuộc tiền công Đông Xuân của quân ta.
Pháp huênh hoang và khẳng định cho rằng Điện Biên Phủ là ” pháo đài khổng lồ không thể công phá” và “
Chủ trương của Đảng:
Cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 – 1954:
– Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng mà địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, và cùng lúc đó tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta. Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho bộ phận chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ.
– Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc.
Tổng quân số huy động 55.000 quân chủ lực, hơn 10 vạn người, 260.000 lực lượng dân công,
Quân và dân các địa phương đã huy động 22.000 lượt xe đạp thồ, 11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô 628 chiếc… đã vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, quân dụng… để phục vụ Chiến dịch.
Đầu tháng 3/1954 công tác chuẩn bị của ta đã hoàn tất, đến ngày 13/3/1954 quân ta nổ súng tấn công.
2. Diễn biến của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
Ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị đã họp và ra quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng ủy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Ngày 25/01/1954, các đơn vị bộ đội của ta đã ở vị trí tập kết và sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh”. Trong quá trình đó, do đã nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt:
Đợt 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954: Quân ta đã dũng cảm, mưu trí tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; tiêu diệt và bắt sống trên 2.000 quân địch, xóa sổ 01 trung đoàn, phá hủy 25 máy bay, uy hiếp sân bay Mường Thanh; tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ – đại tá Pirốt bất lực trước pháo binh của ta nên đã dùng lựu đạn để tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954: Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các tập đoàn cứ điểm. Để muốn kéo dài thời gian nên quân địch hết sức ngoan cố. Tướng Nava hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, quyết liệt nhất, dài ngày nhất, cam go nhất, ta và địch giành giật nhau từng đoạn giao thông hào và từng tấc đất. Đặc biệt, tại đồi C1 quân ta và quân Pháp đã giằng co nhau tới 20 ngày, tại đồi A1 đã giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn của các nình súng bên quân ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động và tinh thần chiến đấu giảm xuống rõ dệt.
Đợt 3: Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954: Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa quân ta và quân địch diễn ra rất quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên đã tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ để phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, quân ta đã chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải xin đầu hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của quân địch. Và ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh cho địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ thì tất cả toàn bộ quân của địch đã bị quân ta bắt.
3. Kết quả của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, thông qua các phương châm tác chiến phù hơph, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một pháo đài mà thực dân Pháp khẳng định là “ pháo đài khổng lồ không thể công phá” và “bất khả xâm phạm”.
Kết quả, bắt sống tướng De Castries, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và tịch thu toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Giải phóng được nhiều vùng rộng lớn. Đã giáng một đòn mạnh, quyết định, đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp.
4. Nguyên nhân thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
– Sự lãnh đạo sáng suốt tài tình và đường lối sáng tạo đúng đắn của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
– Tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
– Sự đoàn kết của tình anh em và liên minh chiến đấu chống giặc giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương là Việt Nam – Lào – Campuchia.
– Sự giúp đỡ quan trọng của các nước Xã hội chủ nghĩa mà đại diện là Trung Quốc và Liên Xô cùng với sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp.
– Quan trọng nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
5. Ý nghĩa lịch sử của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
– Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn mạnh, quyết định, đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp. Cuộc kháng chiến đã chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương.
– Bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mở ra một giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên
– Làm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
– Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận đánh “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lại hoà bình ở Việt Nam, tạo điều kiện để nhân dân ta giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiếp tục đi lên xã hội chủ nghĩa.
– Khẳng định sự giúp đỡ to lớn về cả vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại.
6. Bài học kinh nghiệm của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
– Giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, nắm bắt kịp thời thời cơ, biết chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định.
– Thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân.
– Phát huy thế trận
– Không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh giai cấp công – nông làm gốc, tích cực đấu tranh vì mục tiêu
– Xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
=> Những bài học kinh nghiệm quý giá ấy vẫn còn giá trị nguyên vẹn và được Đảng, Nhà nước ta liên tục chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.