Chiến dịch Biên giới 1950 diễn ra trong bối cảnh lịch sử như thế nào? Ta và địch đã chuẩn bị những gì cho chiến dịch này? Diễn biến chiến dịch ra sao? Kết quả, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của chiến dịch này như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc đó
1. Bối cảnh lịch sử:
Trên thế giới, các quốc gia theo
Trong khu vực này, sau khi thành lập vào ngày 1/10/1949, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố mình là một quốc gia dân chủ mới, với sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và cam kết đoàn kết với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới ủng hộ hòa bình và tự do, cũng như ủng hộ các cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của các đế quốc để duy trì hòa bình bền vững. Vào ngày 18/1/1950, Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
– Tình hình trong nước:
Sau khi chiến thắng trong cuộc chiến Việt Bắc Thu Đông năm 1947, quân và nhân dân của chúng ta tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng: Lực lượng kháng chiến đã phát triển đa dạng; chiến tranh du kích đã được đẩy mạnh ở phía sau lưng địch; lực lượng vũ trang của chúng ta đã hình thành một cách tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực đã phát triển một cách nhanh chóng (trước Chiến dịch Biên Giới, chúng ta đã xây dựng được 2 đại đoàn và nhiều trung đoàn chủ lực); phương thức tác chiến của chúng ta đã phát triển từ chiến du kích lên chiến tập trung, với nhiều chiến dịch quy mô nhỏ trên chiến trường.
Trong khi đó, thực dân Pháp đã thực hiện một kế hoạch mới, nhận sự hỗ trợ đáng kể từ Mỹ để thực hiện Kế hoạch Rơ-ve, tập trung vào việc mở rộng sự chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; họ đã nỗ lực phong tỏa biên giới để ngăn cản sự hỗ trợ của cách mạng Trung Quốc cho cuộc cách mạng Việt Nam; đồng thời, họ đã bao vây và cô lập căn cứ địa ở Việt Bắc.
Trước tình hình đó, để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên một bước mới. Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt – Trung với mục đích: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Cân nhắc giữa hai hướng Tây Bắc và Đông Bắc, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định tiến công địch, giải phóng biên giới ở hướng Cao Bằng – Lạng Sơn.
2. Đặc điểm tình hình và sự chuẩn bị của ta:
2.1. Tình hình địch:
– Quân đội Pháp đã tổ chức hệ thống tuyến phòng thủ ở Liên khu biên giới Đông Bắc, bao gồm hai phân khu ở Cao Bằng và Thất Khê, cùng hai khu ở Lạng Sơn và An Châu.
– Đoạn đường số 4 từ Lạng Sơn đến Cao Bằng đã được quân địch xây dựng thành một hệ thống phòng thủ mạnh, với các cứ điểm được xây dựng vững chắc. Tại từng vị trí trên đường, chúng đã triển khai lực lượng chiếm đóng, với ít nhất 2 đại đội trở lên và có sự tăng cường về lực lượng hỏa lực.
– Tổng cộng, quân đội địch đã triển khai 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh ở Liên khu biên giới Đông Bắc. Trong số này, có 4 tiểu đoàn thuộc lực lượng cơ động Âu – Phi, và 7 tiểu đoàn cùng 9 đại đội thuộc lực lượng chiếm đóng. Ngoài ra, chúng còn có lực lượng binh chủng với tổng cộng 27 khẩu pháo các loại, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, cùng với lực lượng không quân gồm 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát, dành cho việc liên lạc và trinh sát.
2.2. Quá trình chuẩn bị cho chiến dịch Thu Đông:
– Thực hiện nhiệm vụ được giao từ Trung ương, vào ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định khởi đầu Chiến dịch Lê Hồng Phong II, với mục tiêu giải phóng vùng biên giới Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng – Lạng Sơn. Chiến dịch này chủ động tiến công vào phòng tuyến của đối phương trên đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng – Thất Khê.
– Với sự quyết tâm đánh bại trong chiến dịch quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện việc nghiên cứu tình hình và phê chuẩn kế hoạch chiến đấu. Họ đã chỉ đạo các cơ quan Trung ương và địa phương hợp tác chặt chẽ, đảm bảo tiền tuyến được hỗ trợ đầy đủ và thực hiện sự phối hợp chiến trường trên toàn quốc, nhằm đảm bảo sự thành công của chiến dịch này.
+ Liên khu Việt Bắc đã đóng một vai trò quan trọng trong việc động viên và huy động lực lượng nhân dân tham gia hỗ trợ chiến dịch. Với khẩu hiệu “Tất cả cho chiến dịch toàn thắng” Đảng bộ và chính quyền tại Liên khu đã kêu gọi hơn 120 nghìn công nhân dân thuộc các dân tộc tại Việt Bắc tham gia tiền tuyến, đóng góp tổng cộng hơn 1,7 triệu ngày công lao động. Nhờ sự đoàn kết của cán bộ, quân đội và nhân dân, đến giữa tháng 9 năm 1950, công việc chuẩn bị hậu cần đã được hoàn tất một cách cơ bản. Khoảng 4.000 tấn thực phẩm và vũ khí đã được vận chuyển từ xa đến, đảm bảo đủ nguồn cung cấp cho gần ba vạn quân tham gia vào chiến dịch.
+ Để đảm bảo chiến thắng một cách đồng lòng, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định tiếp nhận sự tham gia của nhiều đơn vị mạnh mẽ trong Chiến dịch Biên Giới. Cụ thể, đó bao gồm Đại đoàn 308 cùng với hai trung đoàn chủ lực thuộc Bộ (Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209), cùng với ba tiểu đoàn độc lập (Tiểu đoàn 426 và Tiểu đoàn 428 của Liên khu Việt Bắc, cùng với Tiểu đoàn 888 thuộc tỉnh Lạng Sơn). Đối với lực lượng binh chủng, đã có một lượng lớn quân đội pháo binh và công binh của Bộ Tổng Tư lệnh tham gia chiến dịch, bao gồm 4 đại đội sơn pháo (với tổng cộng 20 khẩu pháo 70mm và 75mm), cùng với 5 đại đội công binh. Ngoài ra, còn có các đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích từ hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Với tổng lực lượng tương đương của hai đại đoàn, Chiến dịch Biên Giới đã vượt qua tất cả các chiến dịch trước đây về quy mô sử dụng lực lượng.
– Đêm 15 rạng sáng ngày 16/9/1950, toàn bộ thế trận chiến dịch cơ bản đã bố trí xong: 2 trung đoàn chuẩn bị đánh Đông Khê (Trung đoàn 174 và 209); 3 trung đoàn thuộc Đại đoàn 308 bố trí ở giữa Đông Khê và Thất Khê, sẵn sàng đánh quân ứng viện bằng cả đường bộ và đường không.
3. Diễn biến và kết quả chiến dịch:
3.1. Diễn biến chiến dịch (diễn ra từ ngày 16/9 đến 14/10/1950):
Vào sáng sớm ngày 16/9/1950, chúng ta đã khởi đầu chiến dịch bằng việc tấn công mạnh tại cụm cứ điểm Đông Khê, mở đầu cho cuộc chiến. Mặc dù đối phương đã có sự chống cự mạnh mẽ và tình huống chiến đấu trở nên phức tạp và khốc liệt, nhưng quân đội của chúng ta đã tập trung dũng cảm, tổ chức nhiều đợt tấn công xung phong và kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Sau 54 giờ chiến đấu, vào sáng ngày 18/9, quân đội của chúng ta đã chiếm được toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê, tiêu diệt và bắt giữ hơn 300 binh sĩ địch, thu giữ toàn bộ vũ khí và hạ bắn một máy bay.
Sau khi chiếm Đông Khê, quân địch đã rơi vào tình thế rất khó khăn. Thất Khê bị đe dọa, thị xã Cao Bằng trở nên hoàn toàn cô lập, và tuyến phòng thủ trên đường số 4 của họ bị tác động mạnh. Sau khi ta hoàn thành nhiệm vụ ở Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chỉ huy chiến dịch đã nhận định rằng đối phương có thể cố gắng tái chiếm Đông Khê để khôi phục tuyến phòng thủ cũ hoặc tạo cơ hội cho quân đội ở Cao Bằng rút lui. Vì vậy,
Theo dự đoán của chúng ta, sau thất bại tại Đông Khê, Tổng chỉ huy của quân đội Pháp ở Đông Dương đã nhanh chóng thực hiện kế hoạch rút quân ra khỏi thị xã Cao Bằng theo đường số 4, nhằm tránh nguy cơ bị tiêu diệt. Theo kế hoạch này, binh đoàn Lơ Pa-giơ tại Thất Khê (bao gồm 4 tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Trung tá Lơ Pa-giơ) đã được giao nhiệm vụ tiến lên chiếm lại Đông Khê để đón binh đoàn Sác-tông (bao gồm 3 tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Trung tá Sác-tông) từ Cao Bằng khi họ rút lui. Ngoài ra, quân đội Pháp còn tiến hành một cuộc hành quân Phô-cơ lên vùng tự do Thái Nguyên, với mục tiêu thu hút chủ lực của chúng ta và giảm áp lực trên hướng biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn.
Việc quân địch tấn công Thái Nguyên đã được Bộ Tổng Tư lệnh dự đoán từ trước và đã sẵn sàng để ứng phó. Do đó, chúng ta vẫn tiếp tục tập trung lực lượng tại biên giới và quyết tâm thực hiện kế hoạch chiến dịch như đã lập trước đó.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đối phương tại Đông Khê, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung hầu hết lực lượng để đánh đối thủ tiếp theo, sử dụng nó như một cú đánh quyết định để đạt được chiến thắng toàn diện. Trong khi chờ đợi cơ hội tấn công, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã quyết định mở rộng hoạt động tại phía nam Thất Khê và khi có điều kiện, tiến hành cuộc tấn công vào Thất Khê. Trung đoàn 174 đã được ra lệnh để cơ động và di chuyển xuống phía nam Thất Khê.
Sau các bước chuẩn bị và thăm dò, vào đêm 30/9, lực lượng của chúng ta đã di chuyển xuống phía nam. Bộ binh Lơ Pa-giơ, bao gồm 4 tiểu đoàn, đã bí mật tiến hành hành quân từ Thất Khê lên Đông Khê. Đồng thời, vào đêm 3/10, đội quân Sác-tông, gồm 3 tiểu đoàn, đã rút khỏi thị xã Cao Bằng một cách tĩnh lặng để hội quân với Lơ Pa-giơ.
Tuy nhiên, ngay khi đến Đông Khê, Lơ Pa-giơ đã bị chúng ta ngăn chặn và tiến hành một loạt trận đánh khốc liệt từ ngày 1 đến ngày 5/10 ở vùng phía nam và phía tây của Đông Khê. Thay vì thực hiện kế hoạch chiếm Đông Khê, Lơ Pa-giơ đã phải đối mặt với sự tiêu diệt một phần của mình và cuối cùng, họ phải chạy vào khu vực núi đá Cốc Xá, nơi địa hình khắc nghiệt và họ tự vực mình sau đó sử dụng đó làm địa điểm để hội quân với Sác-tông. Kế hoạch hội quân ban đầu của địch đã bị phá vỡ, và vào ngày 4/10, binh đoàn Sác-tông đã buộc phải từ bỏ xe và pháo, sau đó tiến hành một cuộc hành quân qua rừng để kết nối với Lơ Pa-giơ tại Cốc Xá.
Đối diện với tình hình này, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã quyết định cắt đứt khả năng liên lạc giữa hai đội quân của địch. Trước tiên, chúng ta tập trung tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ, sau đó chuyển đối tượng tiêu diệt sang binh đoàn Sác-tông. Từ chiều ngày 5 đến sáng ngày 7/10, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, bốn tiểu đoàn của chúng ta đã tiến hành liên tiếp các cuộc tấn công vào khu vực Cốc Xá, đánh bại và bắt sống nhiều tên địch. Mặc dù Lơ Pa-giơ và ban tham mưu của chúng cùng một phần binh lính đã tìm cách thoát ra, nhưng đến chiều ngày hôm sau (8/10), toàn bộ quân địch đã bị bắt giữ.
Cùng ngày 7/10, khi đội quân Sác-tông về đến khu vực cao 477 cách Cố Xá 3km về phía tây, năm tiểu đoàn của chúng ta đã tiến hành bao vây và tấn công, kết thúc chiến thắng sau một ngày đánh liên tục, bắt sống gần 1.400 tên, bao gồm Sác-tông và nhiều sĩ quan chỉ huy cùng với tên tỉnh trưởng tạm quyền của Cao Bằng.
Vào ngày 8/10, một tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Đờ-la Bôm từ Thất Khê đã tiến lên để ứng cứu Lơ Pa-giơ và Sác-tông, nhưng họ cũng đã bị chúng tôi đánh tan.
Sau khi hai đội quân cơ động và linh hoạt này bị tiêu diệt, thực dân Pháp đã tập trung tăng cường lực lượng cho Thất Khê, đưa tổng số quân số lên 3 tiểu đoàn. Mặc dù đông đảo về số lượng, nhưng tinh thần của binh lính địch đã bắt đầu lung lay và sợ hãi.
Ngày 10/10, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã quyết tâm bao vây và tiêu diệt Thất Khê. Trong khi chúng ta đang di chuyển lực lượng đến Thất Khê, vào tối ngày 10/10, địch đã bắt đầu rút lui khỏi Thất Khê. Một tiểu đoàn của địch bị quân ta chặn lại, buộc chúng phải rút lui vào rừng và sau đó bị chúng ta tiêu diệt. Địch tiếp tục rút lui liên tiếp khỏi các vị trí tại Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lạng Giang, Lộc Bình, Đình Lập và An Châu. Chúng ta tiếp tục tổ chức cuộc truy kích, nhưng do sức mạnh của ta đã suy giảm và điều kiện thời tiết không thuận lợi, nên quân ta chỉ có thể tiến hành một số trận đánh nhỏ và tiêu hao một số binh lực của địch. Vào ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên Giới đã kết thúc.
3.2. Kết quả chiến dịch:
Sau 29 ngày chiến đấu quyết liệt, với sự mưu trí và dũng cảm, quân và dân ta đã đạt được một chiến thắng vô cùng quan trọng trong Chiến dịch Biên Giới.
Chúng ta đã đánh bại gần 10 tiểu đoàn địch (trong đó có 8 tiểu đoàn Âu – Phi, chiếm 41% lực lượng cơ động chiến lược của Pháp ở Đông Dương), tiêu diệt và bắt giam 8.296 tên (bao gồm cả toàn bộ ban chỉ huy của đồn Đông Khê và các ban chỉ huy của binh đoàn Lơ Pa-giơ, binh đoàn Sác-tông). Chúng ta thu giữ hơn 3.000 tấn vũ khí và trang thiết bị quân sự, tiêu diệt Liên khu biên giới Đông Bắc của địch; giải phóng
4. Ý nghĩa lịch sử của Chiến dịch Biên giới 1950:
– Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới thật sự là một chiến thắng vĩ đại và có tầm quan trọng lịch sử vô cùng quan trọng. Sau bốn năm kháng chiến, lần này chúng ta đã thực hiện một chiến dịch tiến công quy mô lớn, tấn công vào tuyến phòng thủ mạnh của địch, nhằm đạt được những
– Thắng lợi này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến của chúng ta, chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh chính quy và kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở một trình độ cao hơn. Chúng ta đã nắm quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính và mở ra một giai đoạn mới trong cuộc kháng chiến của mình. Từ đó, chúng ta đã tiếp tục thực hiện các chiến dịch tiến công lớn hơn, với quy mô ngày càng lớn.
– Thắng lợi trong Chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950 đã đánh bại kế hoạch quân sự và chính trị của thực dân Pháp một cách nghiêm trọng: vòng vây biên giới đã bị đánh tan, hành lang từ phía đông sang phía tây bị xâm phá, các vùng tự trị bị đảo lộn, và kế hoạch Rơ-ve cơ bản bị hủy bỏ. Thất bại tại biên giới đã gây chấn động lớn đối với chiến lược và chiến thuật của Pháp, khiến quân đội Pháp phải hoảng loạn và tạm thời điều chỉnh lại triển khai quân lực, thay đổi chiến thuật và chỉ huy… Đây thực sự là một thất bại đầy tiêu biểu trong lịch sử chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tại thời điểm đó.
– Chiến thắng trong Chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950 đánh dấu một bước tiến lớn về nghệ thuật chiến dịch của Quân đội ta. Đây là lần đầu tiên chúng ta tiến hành một chiến dịch quy mô lớn, tập trung vào chiến tranh chính quy, với sự kết hợp của nhiều binh chủng khác nhau, và sử dụng một lực lượng lớn gồm gần ba vạn quân lính và cán bộ. Chúng ta đã tiến công vào một hệ thống phòng thủ mạnh mẽ của địch trên một tuyến đường dài hàng trăm kilomet và tiến hành chiến dịch trong suốt cả một tháng.
– Chiến thắng trong Chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950 là một minh chứng cho sự trưởng thành đáng kể của bộ đội ta trong việc chỉ huy, chiến thuật và kỹ thuật chiến đấu. Đây cũng là nguồn động viên to lớn đối với quân và dân ta. Thắng lợi này làm tăng sự tin tưởng của họ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào sức mạnh của bản thân và đồng thời khích lệ họ càng hăng hái và quyết tâm hơn trong cuộc kháng chiến.
– Ngoài tầm quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam, Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 còn đóng góp tích cực cho sự phát triển của cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia, ta đã từng bước xây dựng được khả năng tự bảo vệ vững chắc và phối hợp mạnh mẽ với cuộc chiến của nhân dân Việt Nam. Đồng thời, thắng lợi này cũng là nguồn động viên và tạo thêm niềm tin cho các dân tộc đang chiến đấu vì độc lập và tự do, đặc biệt là trong bối cảnh Mỹ đang triển khai cuộc xâm lược Bắc Triều Tiên.