Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương
Bạn đang xem: Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Giá trị nhân đạo là gì? 

Giá trị nhân đạo là môt trong những giá trị cốt lõi làm nên một tác phẩm văn học chân chính. Một tác phẩm văn học chân chính trong đó thể hiện được cuộc sống vất vả của những con người cơ cực, những phẩm chất tốt đẹp của họ, cam chịu cuộc sống mà không một lời than vãn tuy nhiên họ không phó mặc cho cuộc đời vùi dập mà đã đứng lên đấu tranh, đòi lại cuộc sống tự do đáng lẽ ra họ được hưởng. Để rồi qua đó, nhà văn lên án, tố cao một xã hội bất công, đầy dẫy những hủ tục lạc hậu.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học thường được thể hiện qua 4 nét chính: 

Tố cáo xã hội: một xã hội được tái hiện thông qua những hình thức bóc lột man rợ, chuyên quyền, hống hách của bọn phong kiến chuyên quyền. Từ đó tác giả lên tiếng tố cáo, phê phán những hành động xấu xa đó bảo vệ cho những người yếu thế hơn.

Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong xã hội. Đây chính là những vẻ đẹp bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.

Thương cảm, bênh vực: Xuất phát từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp tiềm tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương thiện vào đường cùng, tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ để làm chỗ dựa, bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.

Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất cả các tác phẩm. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật, hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đều không có khả năng thay đổi được hoàn cảnh.

2. Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương:

Mở bài

  • Giới thiệu về tác phẩm
  • “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Thân bài

Giá trị nhân đạo:

Khái quát về giá trị nhân đạo: Là lời cảm thông của tác giả trước những số phận đau khổ, qua hình ảnh này tác giả gián tiếp tố cáo nhưng hình vi tàn tạo, không có tình người của xã hội phong kiến xưa cũng như tìm ra một con đường giải thoát số phận cho nhân vật của mình.

Trong chuyện người con gái Nam Xương:

  • Tác giả trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ đương thời thông qua hình ảnh của Vũ Nương “tư dung tốt đẹp, hiếu thảo, …”
  • “Ở hiền thì sẽ gặp lành” đó là niềm tin của tác giả vào những điều tốt đẹp sẽ đến với những người có tấm lòng nhân hậu, sống tốt đẹp (Vũ Nương sau khi chết được cứu và có một cuộc sống tốt đẹp ở dưới Thủy Cung,…)
  • Cất lên tiếng nói đòi quyền hạnh phúc cho người phụ nữ đã phải chịu nhiều bất công (Vũ Nương không trở về mà ở dưới cung điện của Linh Phi).
  • Lên tiếng tố cáo xã hội, chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, khiến gia định vợ chồng phải ly tán, gây ra đau khổ.
  • Thể hiện niềm cảm thông với những số phận oan trái.

Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm

3. Phân tích giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương: 

Tự bao đời nay, tinh thần nhân đạo luôn là chủ đề xuyên suốt trong thiên truyện của các nhà văn, nhà thơ đặc biệt khi nói về những người chịu cuộc sống cơ cực, số phận bất hạnh, hẩm hiu. Thật vậy, nhờ những tài năng ấy mà thế hệ trẻ sau này cảm nhận được nhân dân ta đã phải trải qua cuộc sống đau khổ, cùng cực như nào, đặc biệt là người phụ nữ. Đến với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, người đọc sẽ thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc mà Nguyễn Dữ đã gửi gắm qua những trang văn của mình.

Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp nết đẹp người và đầy tự trọng.

Nàng có một “tư dung tốt đẹp” nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh – một người “con nhà hào phú” lại phải xin mẹ trăm lạng vàng để có thể rước nàng về làm vợ của mình. Chẳng những vậy, nàng còn là người phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.

Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương đã luôn “giữ gìn khuôn phép, không lần nào vợ chồng phải đến nỗi thất hoà”. Hai vợ chồng chia ly, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng và luôn động viên an ủi thể hiện tình cảm của mình với chồng, cho chồng yên tâm: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Người phụ nữ ấy một mực nghĩ về người chồng không mong chờ hay đòi hỏi gì về một cuộc sống xa hoa, gấm lụa. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.

Trương Sinh trở về, gắn cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc và dùng những lời lẽ tàn nhẫn để xúc phạm nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.

Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ bao đời nay tưởng chừng như bất hòa nhưng Vũ Nương đã vun vén, coi mẹ chồng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng mất, nàng thương yêu, lo lắng chu toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Với tấm lòng hiếu thảo, sâu sắc ấy mà Vũ Nương cũng nhận lại được tình cảm của mẹ chồng, trước khi mất, bà để lại những lời cuối cùng dành cho Vũ Nương mong rằng cô sẽ có một cuộc sống tốt đẹp và đủ đầy hơn.

Với con, nàng luôn đảm nhận cả vai trò của người cha, chăm lo cho con hết mực, vì sợ con thiếu thốn tình cảm của cha, mà hành động vô tư chỉ vào cái bóng của mình và nói rằng đó là cha con đã vô tình là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nàng.

Không chỉ vậy, với tư cách là một cá nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn nổi bật lên lòng tự trọng đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.

Trong xã hội bất công ấy, cái đẹp thường bị vùi dập chà đạp không thương tiếc. Chung thủy, son sắc, hiếu thảo, yêu con là thế nhưng nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh.

Trước hết, cuộc hôn nhân không được lựa chọn đã bắt đầu những bi kịch sau này của Vũ Nương. Rõ ràng với sự xinh đẹp với phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ, nàng đáng lẽ ra phải có được một cuộc hôn nhân viên mãn với chàng trai xứng đôi vừa lứa. Nhưng không, số phận đã bắt nàng phải gặp Trương Sinh, một gã đàn ông thất học, xin mẹ tiền đi hỏi cưới vợ. Cuộc hôn nhân của nàng được quyết định bằng những đồng tiền trao đổi mà không phải dựa trên tình yêu.

Đã vậy, Trương Sinh lại là người có tính đa nghi hay ghen, nàng luôn phải khép nép, nhún nhường và thể hiện sự chung thủy hết mực với chồng. Điều này làm cho cuộc sống của nàng luôn bị dày vò sống trong sự xoi xét của người chồng.

Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo con đó là cha nó. Nhưng sự vô tư ấy đã vô tình là nguyên nhân cái chết của nàng. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến của nó, Trương Sinh với tính đa nghi, hay ghen đã phát tiết đánh đập, chà đạp và bôi nọ danh dự của nàng. Hắn không hề mảy may trước những lời giải thích kêu oan của nàng mà đã vội kết luận nàng đã ngoại tình. Để rồi chính sự tuyệt tình đổi nàng ra khỏi nhà, gắn cho nàng tội danh vô cớ đã khiến nàng rơi vào tuyệt vọng.

Vũ Nương dường như đã rơi và bế tắc và bị dồn đến bức đường cùng, bởi xã hội ấy danh dự của một con người là vô cùng quý giá, một khi nó đã bị chà đạp thì không khác gì cướp đi mạng sống của họ. Mặc dù vẫn yêu chồng, thương con, mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng sự thật đã đẩy nàng đi đến bờ vực, gieo mình xuống sông Hoàng Hà để giải oan, dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch.

Số phận bèo bọt của người phụ nữ hứng chịu hết những tàn dư của xã hội phong kiến ”trọng nam khinh nữ” trong các tác phẩm văn học trung đại không chỉ dừng lại trên trang viết của Nguyễn Dữ mà còn có Thúy Kiều của Nguyễn Du,…

Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kỳ.

Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã trường tồn cùng thời gian, theo lịch sử thăng trầm và vẫn còn nguyên giá trị đến bây giờ. Rõ ràng những giá trị nhân đạo đã được nhà văn khơi ngợi, khắc họa qua nhân vật Vũ Nương để cho người đọc xót thương, đồng cảm cho số phận người phụ nữ nói chung.