1. Kể về nữ anh hùng Hai Bà Trưng hay nhất:
Có một nữ anh hùng mà tôi luôn ngưỡng mộ, đó chính là Hai Bà Trưng. Thông qua các bản tin và thông tin trên internet, tôi có cơ hội được biết thêm về cuộc đời của hai nữ anh hùng ấy. Tôi càng cảm động và ngưỡng mộ hơn trước những hành động dũng cảm của Hai Bà Trưng đã làm để giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ của kẻ thù. Chính bởi những hành động cao đẹp ấy mà Hai Bà Trưng đã trở thành những vị anh hùng dân tộc được lưu danh sử sách truyền lại cho các con cháu thế hệ mai sau. Hãy để tôi kể cho các bạn cùng nghe câu chuyện về hai nữ tướng vĩ đại ấy nhé!
Hai Bà Trưng sống trong thời kỳ đất nước bị xâm lược, chiến tranh liên miên. Bất bình và căm hận vô cùng với hoàn cảnh bị áp bức của nhân dân, hai bà đã luyện võ và mong chờ ngày giải phóng dân tộc. Nhưng mọi chuyện chỉ thực sự bắt đầu khi quan giặc Thi Sách sát hại chồng của Bà Trưng Trắc. Nợ nước thù nhà, hai bà đã quyết định nổi dậy chống giặc ngoại xâm.
Hai Bà Trưng trở nên ngày càng mạnh mẽ và thông thạo về chiến lược. Quân đội của hai bà ngày càng trở nên lớn mạnh, đánh đến đâu thắng đến đó, kẻ thù phải đại bại, quân thù phải chạy trốn và khiếp sợ. Nhưng rồi cuối cùng quân địch kéo quân tiếp viện đến và gây áp lực lên quân ta. Hai Bà Trưng giành được chiến thắng nhưng chiến thắng đó không kéo dài được bao lâu.
Vì hoàn cảnh khó khăn, hai bà Trưng bị dồn vào vách núi. Trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc ấy, hai bà đã quyết định tự vẫn để tránh rơi vào tay kẻ thù. Tinh thần kiên cường của hai người phụ nữ ấy thật đẹp để biết bao, đã tiếp tục truyền cảm hứng cho tôi và vẫn khiến tôi cảm phục đến ngày nay. Hai Bà Trưng còn là minh chứng rõ ràng và hùng hồn cho thấy phụ nữ Việt Nam cũng kiên cường, anh dũng, bất khuất như bất kỳ người đàn ông nào, dù ở thời đại nào.
2. Kể về nữ anh hùng Võ Thị Sáu hay nhất:
Khi nhắc đến những nữ anh hùng trong chiến tranh, không ai trong chúng ta có thể quên hình ảnh của chị Võ Thị Sáu, một cô gái dù hy sinh khi còn rất trẻ tuổi nhưng có nghị lực vô cùng phi thường, ý chí bất khuất đến cùng không chịu đầu hàng quân thù.
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1937 tại tỉnh Bà Rịa và được người dân trìu mến yêu thương gọi với cái tên là “Người con gái đất đỏ”. Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, chị đã dũng cảm tham gia phong trào cách mạng khi chỉ mới có mười hai tuổi. Đặc biệt, chị Sáu đã từng giết chết ba tên chỉ huy địch bằng cách ném lựu đạn, thể hiện sự dũng cảm và gan dạ phi thường, không sợ kẻ thù độc ác và nguy hiểm.
Nổi tiếng nhất về chị chính là trí thông minh trong tình báo, biệt động và giao liên, đã góp phần to lớn vào phong trào cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trong một lần thực hiện nhiệm vụ ám sát một tên Việt gian, không may chị Sáu đã bị bắt và bỏ tù. Dù bị cầm tù, tra tấn dã man nhưng chị Sáu vẫn nhất quyết không khai mà tiếp tục lao động và cống hiến, đóng góp cho phong trào cách mạng. Tháng 12 năm 1952, chị Võ Thị Sáu bị đưa ra nhà tù Côn Đảo và bị giam tại Nhà lao Đá Trắng. Ngày chị bị bắn, họ đưa linh mục đến làm lễ rửa tội cho chị, nhưng chị đã mắng chúng và nói:“Tao là người yêu nước, tao không có tội, chỉ chúng mày là quân cướp nước tao, giết dân tao mới là kẻ có tội.” Trước khi ra đi, chị đã hô vang: “Việt Nam muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”
Sau khi chị hy sinh, chiến tranh kết thúc vào năm 1993, chị Võ Thị Sáu được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ” và Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Tấm gương của nữ anh hùng Võ Thị Sáu chính là bài học về lòng yêu nước cao cả và tinh thần bất khuất anh dũng cho tất cả thanh niên, thế hệ trẻ ngày nay của Việt Nam trong quá trình hội nhập với quốc tế và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển.
3. Kể về người phụ nữ có tài Nguyễn Thị Duệ hay nhất:
Nguyễn Thị Duệ là người phụ nữ có tài năng kiệt xuất, đã ghi tên mình trong sử sách lưu danh của dân tộc. Bà được biết đến là nữ tiến sĩ duy nhất ở Việt Nam thời phong kiến, có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước.
Nguyễn Thị Duệ sống ở tỉnh Hải Dương thời nhà Mạc. Bà nổi tiếng thông minh và xinh đẹp ngay từ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, trong thời phong kiến, phụ nữ không được phép đi học hay thi cử. Vì vậy Nguyễn Thị Duệ đã cải trang thành nam giới và tham gia các cuộc thi khoa cử. Năm 1594, khi mới 20 tuổi, bà đã đỗ đầu khoa thi Hội với bút danh là Nguyễn Du. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Thị Duệ được vua Mạc kính cung mời vào cung dạy dỗ các phi tần, công chúa. Bà được tuyển làm phi và được gọi là Tinh Phi, còn được gọi là “Bà chúa Sao”.
Sau đó, nhà Mạc bị diệt vong, Nguyễn Thị Duệ bị bắt và vào rừng trong ẩn náu. Tuy nhiên, do tài năng của bà nên vua Lê và chúa Trịnh đã giao cho bà phụ trách việc dạy học trong hoàng cung. Bà rất quan tâm đến các kỳ thi và phát triển tài năng,
Tôi thực sự khâm phục tài năng và sự chăm chỉ của Nguyễn Thị Duệ. Sự nỗ lực của bà là nguồn động lực để tôi tiếp tục học tập chăm chỉ hơn.
4. Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Định hay nhất:
Bác Hồ từng nói rằng: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Thực tế, trong những ngày khói lửa chiến tranh khi xưa, dân tộc ta không phân biệt già trẻ, nam nữ, ai ai cũng đồng một lòng góp sức đánh giặc. Phụ nữ cũng chiến đấu vô cùng anh dũng. Trong số đó không thể không nhắc đến Nguyễn Thị Định, nữ tướng duy nhất của nước ta trong thế kỷ 20.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh năm 1920 tại thị trấn Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, là con út trong gia đình có 10 người con. Bà thường được người dân Bến Tre gọi à “Cô Ba Định”. Năm 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng, đảm nhận các công việc như đưa thư, phát tờ rơi, vận động quần chúng tham gia chiến đấu. Hai năm sau khi tham gia cách mạng, bà vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian này, bà còn kết hôn với ông Nguyễn Văn Bích, Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Năm 1940, vợ chồng bà bị quân Pháp bắt, chồng bà bị đày ra Côn Đảo rồi bị giết, còn bà thì bị biệt giam tại Nhà tù Bà Rá, nay thuộc tỉnh Bình Phước. Bà được thả ra vào năm 1943 và trở về quê hương. Ngay cả sau khi trở về quê hương, bà vẫn kiên trì và anh dũng tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng.
Tháng 4 năm 1946, bà được cử ra Bắc làm nhiệm vụ báo cáo cho Bác Hồ về tình hình của chiến trường miền Nam. Bà được Đảng tin tưởng và sau đó được giao cho nhiệm vụ bí mật vận chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển, khánh thành tuyến đường biển huyền thoại Hồ Chí Minh. Từ năm 1954 đến năm 1959, bà được bổ nhiệm làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm truy nã, bắt giữ.
Năm 1960, bà được bầu làm Phó Bí thư, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, phối hợp với những người yêu nước phát động phong trào Đồng Khởi, mở ra cánh cửa cho cuộc đấu tranh chính trị gắn với đấu tranh vũ trang rộng lớn hơn. Từ năm 1965 đến năm 1974, bà được bầu làm Phó Tổng Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Tháng 4/1974, bà được thăng quân hàm thiếu tướng và trở thành nữ tướng đầu tiên của
Nữ tướng Nguyễn Thị Định đã sống một cuộc đời viên mãn với đất nước. Dù trải qua nhiều mất mát đau đớn trong đời nhưng bà đã vượt qua hết tất cả và luôn sống hết mình với những người bạn đồng hành cùng mọi người, hy sinh tất cả hạnh phúc của bản thân để lo toan cho hạnh phúc cho mọi người.