1. Kể về nữ anh hùng Võ Thị Sáu:
Đất nước ta trải qua rất nhiều năm dựng nước và giữ nước, có rất nhiều tấm gương đã anh dũng hi sinh vì độc lập cho dân tộc. Nữ anh hùng khiến em khâm phục và ngưỡng mộ nhất là chị Võ Thị Sáu – người con gái miền đất đỏ với tinh thần không hề nao núng trước kẻ thù. Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một miền quê với truyền thống yêu nước. Chị được nhân dân yêu thương, gọi là “ Người con gái đất đỏ”.
Khi giặc Pháp xâm lược, chị Võ Thị Sáu mới 12 tuổi nhưng đã vô cùng dũng cảm, dám ném lựu đạn giết chết ba tên chỉ huy Pháp. Đặc biệt chị rất nổi tiếng về khả năng tình báo, biệt động và giao liên. Tuy nhiên, trong một lần làm nhiệm vụ, chị ám sát hụt tên Việt gian Đốc phủ Tòng. Thế là chị Võ Thị Sáu bị Pháp bắt vào năm 15 tuổi. Tại tòa, tuy mới 17 tuổi nhưng chị Sáu đã hiên ngang tỏ rõ khí phách anh hùng của một thiếu nữ Việt Nam làm cho lũ quan tòa và đồng bọn đều phải nể sợ. Ngày 23/1/1952, chúng thi hành bản án, bắn chết chị ở ngoài hòn đảo xa đất liền ngay sau hai ngày chúng đưa chị ra đây. Biết sắp bị hành hình, suốt đêm 22 chị đã gửi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng: Lên đàng, Tiến quân ca, Cùng nhau đi hùng binh… Bốn giờ sáng, viên cố đạo liền lên tiếng: “Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?”. Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và mặt tên chánh án, trả lời rõ ràng: “Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước”.
Ra pháp trường, khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức ngưng hát và hét lên: “Đả đảo thực dân Pháp”. “Việt Nam độc lập muôn năm”. “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Chị Võ Thị Sáu hi sinh khi chưa đầy 17 tuổi – khi còn quá trẻ. Sau này, khi hòa bình lập lại, vào năm 1993, Nhà nước đã truy tặng chị danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Huân chương chiến công hạng Nhất. Tinh thần bất khuất, dũng cảm của chị Võ Thị Sáu đã truyền cảm hứng cho thế hệ thanh niên Việt Nam, tiếp tục viết nên lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Mỗi khi nhớ đến hình ảnh kiên cường, bất khuất của chị Võ Thị Sáu, em lại càng quý trọng nền hòa bình hôm nay. Cảm phục trước tấm gương người nữ anh hùng, em tự hứa sẽ cố gắng học tập và làm việc thật tốt hơn nữa để xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và tươi đẹp hơn, xứng đáng với sự hi sinh anh dũng của các thế hệ cha ông ta.
2. Kể về nữ anh hùng Hai bà trưng:
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nhiều lần nhân dân ta đã đứng lên, đoàn kết chống quân xâm lược. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng – hai vị nữ tướng đầu tiên của nước ta. Hai Bà Trưng là người đứng đầu cai quản vùng đất Mê Linh vào thời Hùng Vương, gồm hai chị em là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc bấy giờ, giặc phương Bắc cai trị nước ta với chính sách tàn bạo khiến lòng dân vô cùng căm phẫn. Mùa xuân năm 40, Thi Sách – chồng của Trưng Trắc bị Tô Định (Thái Thú người Hán) giết hại. Nó như một mồi lửa, làm bùng lên lòng căm hận quân đô hộ, và khát vọng độc lập tự chủ trong lòng Hai Bà Trưng. Vào một sáng mùa xuân năm ấy tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã làm lễ tế cờ ra quân đánh giặc ngoại xâm
Bà Trưng Trắc đã cùng em gái của mình là Trưng Nhị đứng đầu cuộc khởi nghĩa. Bà Trưng Trắc thu hút được sự tin tưởng của nhân dân bởi sự can đảm, hùng dũng của mình. Cuộc khởi nghĩa này đã liên kết được sức mạnh toàn dân, trong đó có đông đảo phụ nữ, như các nữ tướng: Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiều Hoa… Sau đó, lan dần ra toàn quốc, gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đất Việt Nam ngày nay) rồi đến cả Hợp Phố (phía nam Quảng Đông – Trung Quốc ngày nay). Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi và được tôn làm vua, đứng đầu đất nước. Nền độc lập quý giá ấy được duy trì trong thời gian ba năm. Năm 41, nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tái xâm lược, Hai Bà Trưng đã dũng cảm đương đầu cùng quân giặc. Tổ chức kháng chiến với những trận đánh lớn từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cẩm Khê. Cuối cùng đã hy sinh anh dũng tại dòng Hát giang. Hai bà trưng chính là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và chiến đấu chống giặc anh dũng cho thế hệ mai sau.
3. Kể về nữ anh hùng Bà Triệu:
Nữ tướng trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc mà em ngưỡng mộ nhất chính là Bà Triệu – Triệu Thị Trinh. Bà Triệu Thị Trinh còn được gọi là Triệu Trinh Nương, sinh ngày 02/10/226 tại miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà đã tỏ ra là người mạnh mẽ, thông minh, tài sắc khác thường. Đến tuổi trưởng thành bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ trai tráng, tập hợp quân sĩ dấy binh khởi nghĩa ở đất Quan Yên, được dân chúng khắp vùng nô nức tham gia. Từ miền đất Quan Yên, Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Chu tiến về ngàn Nưa, sau đó vượt sông Mã ra Bồ Điền. Sau đó, nghĩa quân nhanh chóng thu phục được các thành, ấp ở quận Cửu Chân và một số vùng của quận Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng như vũ bão và làm Chấn động Giao Châu
Năm 248, Ngô Triều phải phái Lục Dận đem theo tám nghìn quân tinh nhuệ để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Khi ấy lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ sức chống lại một đạo quân lớn hơn mình gấp bội. Nên trong một trận huyết chiến với quân thù, trước thế mạnh và mưu kế hiểm độc, đê hèn của giặc, bà Triệu đã tuẫn tiết ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248 khi bà chỉ mới 22 tuổi. Bà Triệu là một nữ anh hùng thực sự của đất nước ta với sự dũng cảm, can trường của mình. Noi gương bà, em sẽ cố gắng học tập thật giỏi, để khi lớn lên góp sức mình xây dựng đất nước vững mạnh và giàu đẹp hơn.
4. Kể về nữ anh hùng Lê Chân:
Sử sách ghi rõ Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng khắp vùng. Bà quê ở làng An Biên thuộc phủ Kinh Môn, nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Năm 16 tuổi, Lê Chân nổi tiếng tài sắc, giỏi võ nghệ, có chí lớn phi thường. Thái thú Giao Chỉ lúc ấy là một tên cực kì thâm tàn, bạo ngược. Không ép được bà làm tì thiếp, hắn đã khép ông Lê Đạo vào tội phản nghịch đem giết đi! Lê Chân phải trốn về vùng ven biển An Dương nung nấu mối thù nhà nợ nước, quyết không đội trời chung với giặc Hán xâm lược.
Bà chiêu mộ trai tráng và di dân lập ấp. Nghề nông, nghề chài lưới đánh cá, đóng thuyền ngày một phát triển, lương thực được tích trữ, cung tên giáo mác được rèn. Chỉ mấy năm sau, Lê Chân đã có hàng nghìn dũng sĩ chờ đợi thời cơ, mưu đồ đại sự. Lúc Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, cùng với bao anh hùng nữ kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, Lê Chân chỉ huy đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu vây đánh quân Đông Hán. Lửa cháy, ngựa hí quân reo, chiêng trống dậy đất của nghĩa quân làm cho bọn giặc bạt vía kinh hồn. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp đổ tan tành. Thái thú Tô Định hoảng sợ, khiếp đảm vội bỏ thành trì, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, sáu mươi lăm thành trì được giải phóng, Hai Bà lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập. Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, được giao nhiều trọng trách. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ mặt bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong “Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng bản doanh ở Giao Chỉ,…
Vào tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện mang đại binh sang xâm lược nước ta. Bà Trưng cùng các chiến tướng đem quân ra cự địch. Nhiều trận đánh lớn đã diễn ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5 năm 43, Hai Bà Trưng thất thế phải gieo mình xuống dòng Hát Giang tự tận. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh dũng hi sinh. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chẹn đánh quyết liệt thủy binh giặc. Cuối năm 43 bà đã anh dũng hy sinh tại chiến trường vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (Hà Nam) nêu cao khí phách anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Để ghi nhớ công ơn to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã lập đền thờ gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử cổ kính, trang nghiêm.