1. Người lái đò sông Đà được sáng tác năm bao nhiêu?
Xuất xứ – hoàn cảnh sáng tác:
- “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
- Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản đổi thay, để trở thành một nhà văn mới trong thời đại mới.
Thể loại: Tùy bút
- Tuỳ bút thường là tác phẩm văn xuôi tự sự cỡ nhỏ, thuộc thể loại kí.
- Tuỳ bút có cấu trúc tự do phóng túng, hầu như không có luật lệ, quy phạm gì chặt chẽ, không bị câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể nào. Nhà văn biểu thị những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể.
- Tuỳ bút là những tác phẩm mà những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả luôn nổi lên trên bình diện thứ nhất.
+ Tuỳ bút mang tính chất chủ quan, chất trữ tình rất đậm, nhân vật chính lả cái tôi của nhà văn, bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại. Sự hấp dẫn của tuỳ bút chính là ở lực hút của cái tôi ấy.
+ Trong tuỳ bút, cái tôi của tác giả đa dạng, nên khuôn mặt thể loại ở mỗi tác phẩm cũng có nét độc đáo riêng. Có tuỳ bút thiên về triết lí, có tác phẩm thiên về thông tin khoa học (văn hoá, văn học, lịch sử hay phong tục), có loại thuần trữ tình.
- Ngôn ngữ của tuỳ bút rất giàu hình ảnh và chất thơ.
Bố cục: 2 phần
- Phần 1 (từ đầu đến “họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”): Khắc nổi phẩm chất hung bạo của Sông Đà và ngợi ca phẩm chất trí dũng, tài hoa của người lái đò.
- Phần 2 (còn lại): Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà qua đó thể hiện lòng yêu thiên
nhiên đất nước của nhà văn.
Chủ đề:
Qua hình ảnh con Sông Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò giản dị mà anh dũng, tài hoa, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc của tổ quốc.
Cảm hứng chủ đạo:
Nhiệt tình ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân của một nhà văn mà trái tim đang tràn đầy niềm hứng khời khi thấy mình đã có đất nước, đã không còn “thiếu quê hương”.
Như vậy:
- Người lái đò sông Đà được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân.
- Tùy bút là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960)
2. Đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân:
Đặc điểm con người:
- Là một nghệ sĩ có cá tính độc đáo, có ý thức cá nhân sâu sắc. Ông sáng tạo văn chương trước hết là để khoe tài, để khẳng định cái tôi.
- Là con người tài hoa, uyên bác. Ông có vốn sống phong phú, am hiểu nhiều ngành văn hoá, nhiều bộ môn nghệ thuật… Ông thường vận dụng con mắt và thủ pháp của hội hoạ, điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc,… vào việc sáng tạo văn chương.
- Là một trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc. Ông cũng là nhà văn rất quý trọng nghề viết và là mẫu mực của tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc.
Sự nghiệp sáng tác:
- Trước 1945: Sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung vào ba đề tài chính.
+ Đề tài chủ nghĩa xê dịch: Viết về bước chân của cái tôi lãng tử qua những miền quê. Đó là những trang viết tài hoa, trìu mến ghi lại những cảnh sắc thiên nhiên, phong vị đất nước, những cảnh sinh hoạt độc đáo của các vùng đất nước. Tác phẩm: Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hương (1940)…
+ Đề tài “vẻ đẹp vang bóng một thời”: Viết về những vẻ đẹp còn vương sót lại của một thời đã lùi vào dĩ vãng gắn với lớp nho sĩ cuối mùa đã trở nên lạc lõng với thời hiện tại. Đó là những thói quen phong lưu, những kiểu ăn chơi cầu kì, đài các, những thú tiêu dao lành mạnh, tao nhã, những cách ứng xử nghi lễ, nhịp nhàng… Những trang viết thấm đượm tinh thần dân tộc, thể hiện khát vọng vượt lên môi trường sông dung tục, bộc lộ niềm say mê cái tài, cái đẹp, trân trọng những giá trị văn hoá cổ truyền. Tác phẩm: Vang bóng một thời (1940), Tóc chị Hoài (1943).
+ Đề tài đời sống truỵ lạc: Ghi lại quãng đời do hoang mang bê tắc, con người đã tìm cách thoát li trong rượu, thuốc phiện và đàn hát cô đầu, qua đó làm hiện lên tâm trạng khủng hoảng và lối sống buông thả, vô trách nhiệm của một bộ phận thanh niên đương thời, cũng đồng thời cho thấy niềm khao khát thoát ra khỏi tình trạng đó, hưổng tới thế giới tinh thần cao khiết của nghệ thuật. Tác phẩm: Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc…
Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, trở thành nhà văn công dân, nhà văn chiến sĩ. Sáng tác của ông tập trung ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và lao động sản xuất. Nguyễn Tuân phản ánh vẻ đẹp của người Việt Nam anh dũng và tài hoa trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (Tình chiến dịch – 1950, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi – 1972); ông cũng ca ngợi con người Việt Nam cần cù, tài hoa trong công cuộc lao động xây dựng đất nước (Sông Đà – 1960).
Ngoài kí, tùy bút, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và chân dung văn học với những phát hiện sâu sắc, độc đáo.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
a. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:
- Nguyễn Tuân luôn có ý thức tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo, thể hiện thái độ ngông trong văn chương, thái độ được tạo ra bởi sự tài hoa uyên bác và nhân cách khác người, hơn ngườ.
- Văn Nguyễn Tuân thể hiện rõ chất tài hoa – uyên bác:
+ Tài hoa trong việc dựng người, vẽ cảnh, trong những liên tưởng, so sánh táo bạo, bất ngờ, thú vị với những hình ảnh đẹp, gợi cảm; uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều ngành khác nhau đê quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng, làm phong phú và giàu có hơn khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương, đem đến cho người đọc một lượng tri thức đa dạng, phong phú.
+ Là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ; quan sát, khám phá, diễn tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ:
- Nguyễn Tuân có cảm hứng đặc biệt với những tính cách phi thường, những phong cảnh tuyệt mĩ, những gió bão, thác ghềnh dữ dội…
Thiên nhiên, con người trong văn Nguyễn Tuân luôn phi thường, xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt, tất cả đều có xu hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. Nguyễn Tuân là một tâm hồn nghệ sĩ tha thiết yêu thiên nhiên, ông có những phát hiện tinh tế, độc đáo về thiên nhiên. Thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân luôn hiện ra như những công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá.
- Nguyễn Tuân có một vị trí và đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học hiện đại, đem đến cho văn xuôi hiện đại một phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, phóng túng và độc đáo:
+ Cá tính mạnh mẽ, cách sống tự do, phóng túng, ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Nguyễn Tuân đã đưa thể tuỳ bút lên tới trình độ nghệ thuật cao. Ông là người thúc đẩy cho thể tùy bút, bút kí văn học.
+ Nguyễn Tuân cũng có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật từ cách tổ chức câu văn sáng tạo nhạc điệu, kho từ vựng phong phú cho đến chất văn vừa trang nhã, cổ kính vừa sắc sảo, hiện đại. Ông là nhà văn có công lớn trong việc làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
b. Những biến chuyển trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau CMT8:
Trước Cách mạng tháng Tám | Sau Cách mạng tháng Tám |
Quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng. | Không đối lập quá khứ với hiện tại. Cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và tương lai; và tài hoa có thể có ở cả nhân dân đại chúng |
Tìm cảm giác mạnh ở quá khứ vang bóng một thời, ở chủ nghĩa xê dịch, ở đời sống trụy lạc, ở thế giới ma quỷ… | Tìm những hiện tượng gây cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp, hùng vĩ của thiên đất nước và ở những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và lao động. |
Sử dụng thể văn tùy bút, thiên về diễn tả nội tâm của cái tôi chủ quan. | Vẫn dùng thể văn tùy bút nhưng có pha chất kí với bút pháp hướng ngoại để phản ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân. |
3. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Người lái đò sông Đà:
I. Hình tượng Sông Đà:
Nguyễn Tuân là nhà văn luôn khám phá đời sống từ phương diện văn hóa, thẩm mỹ vì vậy trong tùy bút Người lái đò sông Đà, con sông Đà đã hiện lên như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa in đậm bản ngã văn chương của Nguyễn Tuân. Sông Đà dưới quyền năng sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo, con sông là “thứ kẻ thù số một” của con người. Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ và thân thiết với con người như một “cố nhân”, xa thì nhớ nhung lưu luyến.
1. Tính cách hung bạo – thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của Đà giang:
a. Hướng chảy độc đáo:
Mở đầu tác phẩm, mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, Nguyễn Tuân đã giới thiệu cho người đọc tính cách khác thường, độc đáo của sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông – Chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc.
b. Cảnh đá hai bên bờ sông:
- Sự hùng vĩ và hung dữ của sông Đà trước hết thể hiện ở cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”.
Chỉ với một hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, Nguyễn Tuân vừa giúp người đọc hình dung được độ cao của cảnh đá hai bên bờ sông vừa diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dựng thành vách. Thì ra đá ở hai bên bờ sông đã chắn hết ánh nắng, chúng không cho bất cứ tia nắng nào rọi chiếu xuống mặt sông trừ lúc giữa trưa. Bởi thế quãng sông này – ngoài lúc chính ngọ – luôn luôn âm u, lạnh lẽo đến ghê người.
- Hiểm trở của sông Đà còn thể hiện ở chỗ “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”.
So sánh với một bộ phận nhỏ, hẹp ở cổ họng con người, Nguyễn Tuân đã diễn tả một cách hình ảnh sự nhỏ hẹp của dòng chảy. Và như để tô đậm thêm cho điều đó, nhà văn đã sử dụng liên tiếp hai hình ảnh so sánh: “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” và “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Nhà văn không trực tiếp nói ra nhưng ai cũng hiểu rằng, ở những chỗ đá chẹt lòng sông Đà như “cái yết hầu”, lưu tốc của dòng chảy là rất lớn, nhất là vào mùa nước lũ. Đi vào một khúc sông như thế, không thể không cảm thấy sự nguy hiểm đang rình rập.
- Như chưa thoả mãn với sự miêu tả trên, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc sâu ấn tượng về độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy bằng một liên tưởng độc đáo:
“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Thật bất ngờ và thú vị khi nhà văn so sánh cái cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành. Tưởng như xa cách mà lại hoá gần, ai chưa có dịp được trải nghiệm cái cảm giác “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy” cũng có thể cảm nhận được điểu đó trong một hiện thực rất gần với mình. Cảm nhận ấy lại được thu về, được tổng hợp từ nhiều giác quan khác nhau (đặc biệt là thị giác và xúc giác) nên sự liên tưởng và đồng cảm với nhà văn càng trở nên rõ nét và sâu sắc. Phải là người có óc tưởng tượng sáng tạo và trường liên tưởng phong phú, Nguyễn Tuân mới tạo ra được những đoạn văn độc đáo, thú vị đến vậy.
NHẬN XÉT:
Những câu văn của Nguyễn Tuân liên kết thành một liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ như muốn thôi miên người đọc trong chuỗi liên tưởng tưởng tượng vô tận. Tả đá trên sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận (thị giác, xúc giác) đồng thời dùng nhiều hình ảnh so sánh để khắc họa tính chất hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở của sông Đà.
c. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng:
- Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng. Cả đoạn văn thể hiện sự hung dữ của Đà giang ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng” chỉ có hai câu văn. Nhưng bằng sự kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên tính chất hung bạo của sông Đà.
- Nhà văn đã nhân hoá con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ dữ dằn (“gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào”).
Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc (“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”) lại được hỗ trợ bởi các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa hợp sức của gió, sóng và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dội. Câu văn đang đi những nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến (“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”) khiến cho những chuyển vận của sóng, gió và đá ngày càng lớn, càng bức thúc tạo nên một mối đe doạ thực sự đối với bất cứ người lái đò nào đi qua những ghềnh sông như thế. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã hạ một câu văn bình luận trữ tình ngay sau đó: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
d. Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát:
- Sự hung bạo của sông Đà còn thấy ở những “cái hút nước” chết người.
Bất cứ ai cũng có thể hình dung ít nhiều về những chỗ nước xoáy xiết trên sông nhưng nó chưa thể độc hiểm bằng những “cái hút nước” mà Nguyễn Tuân đã khắc hoạ trong tác phẩm. Bằng so sánh và nhân hoá, bằng kể và tả, bằng những liên tưởng và tưởng tượng bất ngờ, nhà văn đã khiến cho những cái hút nước ấy hiện hình dưới nhiều góc độ khác nhau đồng thời giúp người đọc cảm nhận được tất cả sự ghê gớm và “độc ác” của chúng.
- Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những cái hút nước sông Đà giống như những “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”:
Lúc thì “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tự bản thân các từ và cụm từ: thở, kêu, sặc, ặc ặc lên, rót dầu sôi vào… đã nói lên cường lực ghê gớm của những cái hút nước.
- Bằng vốn sống phong phú, bằng trí tưởng tượng sáng tạo, nhà văn đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những hút nước qua hàng loạt các so sánh, liên tưởng độc đáo.
Nhà văn đã ví những con thuyền phải qua những vùng xoáy nước thật nhanh như “ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Nhà văn đã tưởng tượng anh bạn quay phim táo tợn muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã “dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.
- Thế rồi thu ảnh”. Rõ ràng, những tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (giao thông, điện ảnh) đã giúp Nguyễn Tuân có cái nhìn đa chiều về một hiện tượng đồng thời làm cho nó hiện hình rõ nét và đọng lại ấn tượng đậm nét trong lòng bạn đọc.
- Ngoài ra, như để bạn đọc khỏi thoát li thực tế trong những tưởng tượng viển vông, Nguyễn Tuân đã kết hợp tả và kể một cách hiện thực và giàu hình ảnh về những cái thuyền bị cái hút nước nó hút xuống:
“Thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đó là những hình ảnh đầy chất hiện thực mà bất cứ ai khi đọc đến cũng đều có thể hình dung ra sự “tàn nhẫn” của những cái hút nước sông Đà. Cứ thế tưởng tượng nối tiếp tưởng tượng tài hoa vẫy gọi tài hoa những dòng văn của Nguyễn Tuân một lúc một thêm kì thú.
e. Những con thác dữ trên Sông Đà:
- Hùng vĩ nhất của sông Đà phải kể đến những cái thác nước mang diện mạo và tâm địa của “kẻ thù số một của con người” hung bạo bủa vây, chặn bắt thuyền bè qua lại nơi đây. Bằng quyền năng của một nghệ sĩ ngôn từ, Nguyễn Tuân đã bắt cái hùng vĩ ấy phải nổi thành hình, thành khối trên trang giấy và gào lên trong muôn vàn âm thanh phong phú làm nên một dàn giao hưởng hùng tráng của sóng gió xô thác đá.
+ Nước thác: gợi cảm giác âm thanh
+ Thoạt đầu là những cung bậc nỉ non, nghe như là “oán trách, rồi lại như là van xin, rồi khiêu khích”. Tác giả đã nhân hoá, biến quãng sông thành một sinh thể. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đó là bọn “người – thác” nham hiểm chứ không còn là thiên nhiên
vô cảm nữa.
+ Thế rồi âm thanh của nước thác được phóng to hết cỡ như khúc nhạc của thiên nhiên đang ở điểm đỉnh của cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại. “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Câu văn là một liên tưởng lạ, bất ngờ mà hợp lí trong sự tương giao giữa sông nước với rừng, với đại ngàn, giữa sông nước với đàn trâu mộng. Âm thanh thác nước được động vật hoá thành tiếng gầm của đàn trâu rừng.
+ Và cuối cùng là “phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Liên tưởng này càng lạ càng bất ngờ, càng gây một cảm giác thẩm mĩ rất cao trong sự tương khắc giữa thuỷ với hoả, giữa nước với lửa. Dám lấy lửa để tả nước, dám lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông trong nghệ thuật. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động đất, động rừng thời tiền sử. Chữ nghĩa của ông như muốn nổi hình, nổi âm lên.
+ Sóng thác: Từ chỗ “nghe thấy” tiếng của kẻ thù, đội quân chèo lái con đò dần “nhìn thấy” diện mạo của bọn chúng “ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”, “sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Bằng lối miêu tả đa dạng, linh hoạt, khi thì tả bao quát lúc thì vận dụng kiến thức võ thuật và những so sánh cụ thể, Nguyễn Tuân đã gợi lên được vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ đồng thời làm nổi bật cái hung hăng của dòng sông dữ miền Tây Bắc Tổ Quốc.
+ Đá thác: Nguyễn Tuân quan sát thật tinh xác trong việc phát huy sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền sự sống cho những hòn đá vô tri trên sông Đà. Đá thác được khắc họa rõ nét qua diện mạo và tâm địa. Nhà văn đã đem kiến thức quân sự và võ thuật mà xây dựng hình ảnh những tướng đá, quân đá ở sông Đà. Và bằng nghệ thuật nhân hoá, nhà văn đã tạo tác nên những sắc diện đá, thái độ, suy nghĩ của từng hình đá khiến chúng trở nên sống động, hiển hiện rõ nét đến lạ lùng.
+ Diện mạo dữ tợn: “Mặt hòn nào cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó” – nghệ thuật nhân hóa giúp người đọc nhận ra từng sắc diện của bọn ác thủ trong hình thù đá vô tri.
“Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến” – sức mạnh điêu khắc của ngôn từ đã chạm khắc khiến bọn người đá hiện lên rõ nét: xấc xược, hỗn hào, rất du côn, rất “anh chị”
+ Tâm địa nham hiểm: Đá thác của sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một đội quân đá ranh mãnh, nham hiểm, lắm mưu kế. Nó bày trùng vi thạch trận giao việc rõ ràng cho mỗi hàng tiền vệ, tuyến hai, tuyến ba với lối đánh “khuýp quật vu hồi”, với “những boong ke chìm, pháo đài nổi” quyết tiêu diệt tất cả thuyền bè ngay chân thác. Bọn đá ngầm làm nhiệm vụ “mai phục” ở dòng sông đến một ngàn năm nay. Bọn đá nổi “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Các tảng to, tảng nhỏ được Nguyễn Tuân hình dung như đá tướng, đá quân. Cả một chân giời đá được
mô tả như một trận địa với những âm mưu, thủ đoạn và sẵn sàng dìm chết con thuyền. Từ chỗ “nghe thấy” của kẻ thù, đội quân chèo lái con đò dần “nhìn thấy” diện mạo của bọn chúng trong từng thạch trận:
- Trùng vi thạch trận thứ nhất:
Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”; “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Đây là cuộc tấn công giữa một bên là đá, là nước, là sóng… với một bên là ông lái đò. Con sông Đà ở thế thượng phong như một võ sĩ ra đòn thật hiểm ác quyết tiêu diệt bằng được đối thủ ngay từ những miếng võ đầu tiên.
- Trùng vi thạch trận thứ hai:
Thần sông, thần đá đã thay đổi binh pháp và qui luật phục kích. Sông Đà “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Sóng thác không ngớt khiêu khích con người, bọn thì reo hò cổ vũ. Sông Đà không khác gì mụ phù thủy thù địch tìm mọi cách tiêu diệt con người.
- Trùng vi thạch trận thứ ba:
Sông Đà sắp đặt “ít cửa hơn bên phải, bên trái đều là luồng chết cả”, luồng sống “lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Cái xảo quyệt tàn ác, cái thâm hiểm càng lúc càng bộc lộ rõ càng chứng tỏ con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một” của con người Tây Bắc.
- Câu chữ của Nguyễn Tuân đã bắt sự hung bạo kia phải nổi hằn lên thành hình khối và réo lên muôn vạn âm thanh.
Thuỷ quái sông Đà khi ẩn nấp mai phục, khi lừa miếng đánh du kích, khi quay vòng trở lại theo lối vu hồi, khi xông xáo liều mạng, đánh tới tấp bốn phía; khi như van xin oán trách gì, khi lại khiêu khích thách thức, chế nhạo con người, khi hò la gầm thét vang động cả núi rừng. Nhưng bên cạnh sự hung bạo và cả bên trong sự hung bạo, ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước; có thể nghe thấy trong những đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca, ca ngợi sức mạnh của tự nhiên thật hoang dại mà cũng thật tự do và khoáng đạt.
2. Tính cách trữ tình – thể hiện qua vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của Đà giang khi được nhà văn quan sát và tái hiện từ nhiều góc độ khác nhau:
Sông Đà không chỉ khác thường với những cảnh hùng tráng, kì vĩ mà còn khác thường trong cảnh thơ mộng và cổ kính hoang sơ. Ngôn từ của Nguyễn Tuân cũng di động giữa hai cực khi “vẫy gió tuôn mưa”, làm náo động cả trang sách, khi lại êm ái bâng khuâng để họa nên dung nhan của người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông, nhà văn thay đổi cách viết, ông không tả hay kể lại theo lời kể của ông đò nữa mà viết theo những cảm xúc tức thời của một du khách, mỗi đoạn văn khi thì bay tạt ngang qua sông Đà, khi thì theo chân anh liên lạc, khi thì ngồi con thuyền êm trôi… là một lần nhà văn phát hiện một vẻ đẹp của con sông.
a. Từ trên cao nhìn xuống:
- Nhà văn đã thấy dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.
Vóc dáng mềm mại của dòng sông Đà được nhà văn vẽ nên bằng ngôn ngữ văn xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc và chất hoạ: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Từ đỉnh trời Tây Bắc, áng tóc mun huyền thoại “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải” ấy nối liền những khoảng không gian mênh mông của đất nước… Đọc câu văn, ta có cảm giác sông Đà như một cô gái đẹp biết làm duyên. Người con gái ấy có mái tóc “tuôn dài tuôn dài” tưởng chừng như bất tận. Rõ ràng, sông Đà là một sơn nữ, một mĩ nhân duyên dáng và gợi cảm. Nguyễn Tuân không nói “mái tóc” mà là “áng tóc trữ tình”. Cách dùng từ đắc địa làm sống dậy trước mắt ta một dòng sông rất mực duyên dáng, thơ mộng và kiều diễm. Sông Đà, ấy còn là một áng thơ giữa đất trời Tây Bắc thơ mộng. Với tiết tấu câu văn chậm rãi, thủ pháp trùng điệp, dường như Nguyễn Tuân đang đua tài cùng tạo hoá để miêu tả cho được vẻ đẹp êm đềm, dịu dàng của Đà giang khúc hạ nguồn.
- Phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông.
Nhà văn quả quyết màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”. Để làm nổi bật cái màu xanh tươi sáng, lấp lánh của Đà giang, nhà văn đã phân biệt với màu “xanh canh hến” của nước sông Gâm, sông Lô. Mùa thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, chưa bao giờ con sông lại có màu “đen” như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào” và gọi bằng một cái tên lếu láo – Sông Đen. Bằng sự khẳng định này, Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà còn trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến đối với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở.
b. Từ xa đến gần:
“Nhìn Sông Đà như một cố nhân”, Nguyễn Tuân cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Đó là cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu chứa chan sự bùi ngùi tiếc nhớ. Đó là cái vui tràn đến, ùa ra thành nhịp điệu: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà” cho thấy tấm lòng trìu mến hoan hỉ của nhà văn đối với tạo vật. Cái vui khiến nhà văn cảm thấy “nắng giòn tan”. Nếu cái nắng tháng 3 Đường thi chứng kiến cuộc chia li giữa đôi bạn Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên thì cái nắng ở đây dường như tươi sáng hơn, “đầm đầm ấm ấm” hơn vì nó can dự vào cuộc hội ngộ giữa cố nhân và cố nhân. Chất thơ như ngấm vào từng cảnh sắc, một niềm vui thật huyền diệu “vui như nối lại chiêm bao bị đứt quãng”.
c. Từ điểm nhìn của một khách hải hồ, du thuyền trên sông Đà:
Ngồi trên con thuyền trôi trên dòng sông, từ điểm nhìn của một du khách, nhà văn cảm nhận được con sông êm đềm thơ mộng. Chính cái không gian êm đềm ấy vừa làm người đọc cảm nhận được dòng chảy hiền hòa ở thời điểm hiện tại, vừa đưa người đọc trôi về một thời đã qua nay còn “vang bóng”, vừa chắp cánh cho tâm hồn vươn tới tương lai.
- Dòng chảy con sông thời hiện tại:
+ Cụm từ “thuyền tôi trôi” lặp lại hai lần tạo thành một điệp khúc êm nhẹ như ru hồn người vào quãng sông lặng tờ.
+ “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”: Câu văn xuôi đọc lên nghe như câu thơ. Con thuyền êm trôi, câu văn vì thế cũng lâng lâng không vướng víu thanh trắc nào. Hai chữ “tôi”, “trôi” bắt vần lấy nhau ngân nga dìu dịu dư âm trên quãng sông tĩnh lặng. Con thuyền như được dòng sông đẩy đi, không phải chèo chống gì, gợi sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ đừ trôi giữa đôi bờ.
+ “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô non nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa… cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn lá”. Ngồi trên thuyền, con thuyền trôi trên mặt nước mà Nguyễn Tuân ngỡ như đang trôi qua một nương ngô non, trong đồi cỏ đang ra những nõn búp, mùa xuân Đà Giang đang e ấp ủ mình. Hồn văn của Nguyễn Tuân tưởng đã già đi cùng với “Vang bóng một thời” lại nảy lộc bỡ ngỡ non tơ bên một dòng sông, bên một cuộc đời mới mẻ.
- Dòng thời gian của lịch sử trong quá khứ:
+ “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Một vẻ đẹp tĩnh lặng êm ả như còn đó dấu tích của lịch sử cha ông. So sánh với các triều đại xưa, Nguyễn Tuân khẳng định không thể lặng hơn thế được nữa. Hai chữ “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ.
+ Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính, tồn tại như một điều vĩnh hằng qua ba lần so sánh rất lạ: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”; “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa”; “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương”. Cái gần gũi, cụ thể, hữu hình, cái vật chất lại được liên hệ đối sánh với cái xa xăm, trừu tượng, vô hình, tình cảm, đi ngược lại với thói quen so sánh thường ngày gợi vẻ đẹp của dòng sông chảy bền bỉ qua năm tháng lịch sử, mang dấu ấn văn học của dân tộc. Những so sánh độc đáo ấy đã mở ra một chuỗi liên tưởng trùng trùng bát ngát, mở rộng đến tận cùng trí tưởng tượng của người đọc, gợi ra vẻ đẹp muôn đời bất biến của dòng sông.
- Dòng khát vọng của cuộc sống trong tương lai:
+ Từ hiện tại tưởng vọng tới tương lai tươi sáng cho vùng đất “thiêng” vừa già nua, vừa non trẻ: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Tiếng còi vang lên trong các tác phẩm xưa của Nguyễn Tuân thường báo hiệu một cuộc xê dịch, một cuộc chia ly nhưng ở đây tiếng còi lại báo hiệu sự phát triển của một mộng tưởng đẹp về một ngày không xa vùng đất bên con sông hoang dã này được xây dựng hiện đại như tất cả các vùng đất khác.
+ Từ hiện tại, nhà văn tưởng tượng cuộc kì ngộ giữa con hươu thơ ngộ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương”. “Tiếng còi sương” là tiếng còi của tưởng tượng, của ao ước chan chưa khát vọng về một hiện thực sáng ngời còn chưa tới song đã âm vang trong lòng người và tạo vật.
- Cảnh sông Đà càng về cuối càng sống động:
+ Trên mặt nước, “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên… như bạc rơi thoi”. Ta không chỉ thấy mà còn nghe, thấy cái ánh bạc lấp lánh của bụng cá, nghe tiếng quẫy nước rộn ràng như vang ngân.
+ Đang trôi “những con đò mình nở chạy buồm vải, nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”. Vẻ đẹp hiện thực và vẻ đẹp tình yêu của chính nhà văn tài hoa đang đắm say mơ mộng.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ:
Với kiến thức uyên thâm, kết hợp so sánh và tưởng tượng, liên hệ thơ phú kim cổ một cách tự nhiên và phù hợp, Nguyễn Tuân đã để lại những trang tuyệt bút viết về Sông Đà – con sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, “chất vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc tạo ra men say cho sự sống con người. Bằng bút lực dồi dào của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên một áng thơ văn xuôi tràn trề cảm xúc với tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha.
Bằng nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn khác nhau (mặt sông, xoáy nước, bãi bờ, cây cỏ, muông thú ven sông), Nguyễn Tuân đã khám phá những nét vừa hung bạo, vừa trữ tình của cảnh sông Đà. Khám phá sông Đà công phu và tỉ mỉ như vậy, chứng tỏ Nguyễn Tuân có một tấm lòng yêu mến gắn bó với thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc Tổ quốc. Nhà văn đã xê dịch để có được cái nhìn vừa toàn cảnh vừa cận cảnh về sông Đà. Bằng sự phối hợp rất nhiều tri thức liên ngành, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cái thần, cái hồn của dòng sông. Vì vậy, hình tượng sông Đà độc đáo và cá tính còn cho ta thấy rõ tài năng và phong cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân: ngôn ngữ phong phú, kiến thức uyên bác, cảm hứng trước những cảnh tượng gây cảm giác mãnh liệt và sự vật được phát hiện, miêu tả ở phương diện cái đẹp…
III. Hình tượng người lái đò:
Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến người nghệ sĩ tài hoa suốt đời săn tìm cái Đẹp. Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân dù làm bất kì nghề nghiệp gì thì đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Bước vào trang viết Nguyễn Tuân, người lái đò Sông Đà hiện lên vừa trí dũng, tài hoa, vừa ung dung, bình dị.
1. Khái quát về nhân vật:
“Tay ông dài lêu nghêu, chân ông khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng”. “Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng nhìn một cái bến xa trong tưởng tượng”. Thân hình “cao to gọn quánh như chất sừng chất mun”, “nước da nâu bóng”. Ít ai ngờ rằng thân hình săn chắc, tráng kiện như một thanh niên ấy lại là của một ông lão. Bởi “nếu bịt cái đầu hói đi, không ai không lầm mà tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi – ngoài bến chính bờ sông”. Có thể thấy dấu vết nghề nghiệp in đậm trên thân hình ông lái đò.
“Giọng ông ào ào như tiếng nước thác trước mặt ghềnh”. Nếu cụ Mết (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) có giọng nói “ồ ồ trong lồng ngực” mang âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì ông lái đò của Nguyễn Tuân lại mang đặc trưng “ăn sóng nói gió” của người lao động vùng sông nước.
- Ông lái đò là người rất thạo nghề.
“Nếu ví Sông Đà như một thiên anh hùng ca thì ông lái đò là người đã thuộc thiên anh hùng ca ấy đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Cả cuộc đời ông đã xuôi ngược hơn trăm lần trên dòng sông, hơn 60 lần cầm lái chở hàng nối miền ngược với miền xuôi. Trên bả vai ông, dấu vết nghề nghiệp vẫn còn hằn lên với một “củ nâu”. Đó là dấu vết của con sào mỗi lần ông đẩy thuyền xuôi ngược qua bao ghềnh thác. Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng” mà cuộc đời dành tặng cho người anh hùng lao động vô danh, thầm lặng ở miền sông nước Đà giang này.
2. Vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật:
Cực tả con sông Đà là cách Nguyễn Tuân xưng tụng những chiến công phi thường của người lái đò, nếu con thuyền của ông lái đò không phải vật lộn với dòng thác hùm beo, hẳn ông sẽ lẫn vào với bao ông ngư, ông lái khác, nhưng ông dám đương đầu và chiến thắng thần sông thần đá, trở thành đối tượng của anh hùng ca.
a. Vẻ đẹp trí dũng: ông đò – một anh hùng sông nước:
- Quan niệm của Nguyễn Tuân về người anh hùng:
Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có trên chiến trường súng đạn. Anh hùng không chỉ xuất hiện trong bom gầm, đạn réo, trong khói lửa chiến tranh mà còn xuất hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày với những con người đơn sơ, giản dị trong cuộc vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Cái trí dũng tài hoa không ở đâu xa mà ở trong những người dân lao động bình thường. Không phải ai khác mà chính họ đã làm nên những thiên anh hùng ca lao động thật đáng trân trọng biết bao!
- Phương pháp khắc họa người anh hùng sông nước của Nguyễn Tuân:
+ Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc. Cuộc vượt thác chính là trận chiến của con đò mà người lái đò là vị tướng chỉ huy.
+ Về thế trận, đây là cuộc chiến không cân sức. Một bên là Sông Đà – thiên nhiên lớn lao, dữ dội, hiểm độc, một bên là con người nhỏ bé trên chiếc thuyền gỗ mỏng manh, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo trên con đò đơn độc.
- Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản để khắc hoạ hình tượng ông lái đò sông Đà, một con người bình thường mà tài hoa nghệ sĩ, một con người lao động trên sông nước mà “tay lái ra hoa”.
- Trận thủy chiến trên Sông Đà – vẻ đẹp trí dũng của hình tượng ông đò:
+ Trận thủy chiến trên Sông Đà là một trận chiến quyết tử bởi “đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sống đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có trận địa đá dàn sẵn”. Vậy nên “cưỡi lên thác sông Đà” chỉ còn một cách duy nhất là “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, tả xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận”.
+ Thạch trận Đà Giang gợi đến những trận đồ bát quái với đủ cửa sinh, cửa tử trong các trận võ hiệp gợi nhớ Gia Cát Khổng Minh cũng có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của con sông được nhân lên bởi trùng trùng liên tưởng của chính người đọc. Cuộc thủy chiến được mô tả theo 3 hiệp mà tác giả gọi đó là những “trùng vi thạch trận” làm cho câu chuyện về người lái đò vừa hiện đại, vừa cổ kính thiêng liêng.
+ Hai bên đối mặt, đối phương được miêu tả y hệt như một tên tướng kiêu ngạo và hợm hĩnh, “hất hàm hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Ông lái đò bình tĩnh không đáp nhưng “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên sóng trận địa phóng thẳng vào mình”.
+ “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cuộc hỗn chiến ác liệt đã diễn ra. Đối phương tung ra đội quân nước “hò la vang dậy”, “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay” những người chèo đò. Sóng nước đã tung ra “miếng đòn hiểm độc nhất” quyết bóp chết người lái đò: hết “đá trái” rồi lại “thúc gối”, thi nhau “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con người. Vậy mà người chỉ huy vẫn “ngắn gọn tỉnh táo” đưa “cái thuyền sáu bơi chèo” vượt qua “trùng vi thạch trận” thứ nhất. Cả một khối lượng đồ sộ từ ngữ mà Nguyễn Tuân chở về từ làng võ thuật đã được hào phóng ném ra trên các trang văn khiến hình tượng ông đò hiện ra sừng sững oai
phong như một võ tướng thực thụ.
+ “Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt”, đội quân chèo đò quyết định phá luôn
vòng vây thứ hai.
+ Đối phương: tung ra đội quân chủ lực, đội quân đá nham hiểm, xảo quyệt bố trí lệch cửa sinh từ tả ngạn “qua phía bờ hữu ngạn”.
+ Ông đò: Qua hiệp đầu đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” nên dù trong tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng. Ông thay đổi chiến thuật: từ thế thủ chuyển sang tấn công “nắm chặt lấy bờm sóng”, “cho chiếc thuyền phóng nhanh vào cửa sinh”. Với những ải nước nhô ra hòng níu chiếc thuyền vào cửa tử, “đứa thì ông tránh vào rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn mà chặt đôi ra để mở đường tiến”
- Tư thế vừa oai phong, hùng dũng vừa táo bạo nhanh nhẹn, gợi đến câu chuyện “Võ Tòng đả hổ” trong thiên tiểu thuyết “Thủy Hử” nổi tiếng.
+ Để miêu tả cuộc giao tranh ấy, với con sông, cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ của sông Đà (rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, tung, bật ngửa), với ông đò, Nguyễn Tuân đã tung ra một cơn “bão động từ” đủ sức ganh tài (nắm chặt, ghì cương, bám chặt, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, đánh khuýp quật vu hồi,…) các động từ hợp sức với nhau tạo thế cưỡi hổ tung hoành. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, dòng sông truyền cảm xúc cho người đọc, cảm xúc cứ thế cuồn cuộn nổi sóng trên dòng sông ngôn từ tác động mạnh mẽ vào giác quan, vào trí tưởng tượng của người đọc.
+ Đối phương: “Thằng đá tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tả sắc diện của một hòn đá mà dùng hai chữ “tiu nghỉu” thì quả là tuyệt bút. Nhưng thác dữ sông Đà vẫn không chịu từ bỏ dã tâm. Thạch trận bố trí “ít cửa hơn” nhưng “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, luồng sống “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”.
+ Ông đò: cứ lao đi như mũi tên, vượt qua vòng vây cuối cùng “Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cừa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác”
=> Miêu tả ba lần “phá vây này”, Nguyễn Tuân đã tạo nên những “trường đoạn” hào hùng với nhân vật trung tâm là một người lái đò “chiến đấu gian lao… trên chiến trường sông Đà” bằng tài năng của một người lao động – nghệ sĩ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân như một máy quay phim ghi lại những trường đoạn hồi hộp, gay cấn, căng thẳng của cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên này. Ba lần chiến đấu, ba lần người anh hùng lao động trên sông nước phá tan thế trận cam go đã được Nguyễn Tuân diễn đạt bằng ngôn ngữ, chi tiết biến hoá, không lặp trùng.
b. Vẻ đẹp tài hoa: ông đò – một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật chèo đò vượt thác:
- Quan niệm của Nguyễn Tuân về người nghệ sĩ:
+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt vì vậy con người trong sáng tác của ông bao giờ cũng là đấng tài hoa, siêu phàm.
+ Đến với những trang văn tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân, người đọc nhận ra rằng không phải chỉ ở chiến trường mới có anh hùng cũng như không phải chỉ những người có học thức, có năng khiếu nghệ thuật mới được xem là nghệ sĩ mà bất cứ ai thành thục trong nghề nghiệp của mình đều có thể xem là người nghệ sĩ trong lĩnh vực ấy.
- Những biểu hiện của phẩm chất nghệ sĩ ở ông đò:
+ Tư chất tài hoa, tài tử của ông đò được nhà văn tô đậm qua cuộc “giao tranh” với dòng sông nơi bãi đá ngầm. Quan sát trận thủy chiến này, mới thấy Nguyễn Tuân chú tâm miêu tả cái hung bạo, dữ dội của Đà giang còn là để tạo nên một “địch thủ” tương xứng với “tầm vóc” con người có tài, có trí và có tay lái ra hoa lúc nào cũng ung dung trước thiên nhiên như thứ kẻ thù số một của con người.
+ Có tài trí: tất cả nghệ thuật của ông là “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” làm chủ được quy luật có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật.
+ Có tay lái điêu luyện: ông chiến thắng thác dữ bằng những động từ nhuần nhuyễn, táo bạo và hết sức chính xác: “lái miết một đường chéo về phía của Đại khiến con thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được, lượn được” dưới sự điều khiển của ông, chiếc thuyền vừa lượn lách, vừa mềm mại, mạnh mẽ.
NHẬN XÉT:
– Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Đối với bất cứ công việc gì, khi đạt tới một trình độ khéo léo, điêu luyện, con người sẽ bộc lộ nét tài hoa rất đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Dù đoạn trích không có nhiều trang viết tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở người lái đò nhưng người đọc vẫn nhận thấy tư cách nghệ sĩ, sự tài hoa trong từng động tác rất thuần thục của ông lái. Khi đạt tới một trình độ nhuần nhuyễn, điêu luyện, mỗi động tác của người lái đò như một đường cọ trên bức tranh thiên nhiên sông nước.
– Qua tình huống vượt thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò. Ông nắm vững “binh pháp của thần sông thần đá”, xử lí tình huống nhanh chóng, tỉnh táo qua ba trùng vi thạch trận (trí); ông dũng mãnh, sẵn sàng nghênh chiến, dù bị thương cũng không lùi bước, quyết “cưỡi lên thác Sông Đà” (dũng); tay lái ông đò thuần thục, điêu luyện đến mức có thể đưa con thuyền vượt qua được mọi địa hình hiểm trở nhất (tài hoa). Có thể xem ông lái đò vừa là một dũng tướng trong trận chiến với “dòng thác hùm beo”, vừa là một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
c. Ung dung, bình dị:
+ Trong cuộc sống đời thường, người lái đò hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn bình dị khiêm nhường. Khi ông ngưng mái chèo trở về cuộc sống đời thường, lập tức “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh […] Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Vậy là cũng như bao người lao động bình thường khác, ông lái đò không xem cuộc vượt thác vừa qua là một chiến công phi thường, vĩ đại. “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày năo cũng giành lấy sự sống từ tay những con thác, nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ”. Đây chính là phẩm chất đặc biệt của những anh hùng vô danh trong văn học Việt Nam hiện đại. Nói như Nguyễn Khoa Điềm thì: “Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” (Đất Nước).
+ Ngoài ra, ông đò còn là người có tình yêu quê hương bản làng sâu sắc. Đi đường xa, ông luôn treo cái bu gà trên chiếc thuyền đuôi én để “có tiếng gà gáy đem theo để đỡ nhớ bản mường”.
NHẬN XÉT:
- Vẻ đẹp của ông lái đò là vẻ đẹp của tư chất tài hoa, nghệ sĩ, vẻ đẹp của lòng quả cảm, ý chí ngoan cường của người lao động Tây Bắc giữa đời thường trong cuộc chinh phục, chế ngự thiên nhiên vốn hiểm trở, dữ dội. Vẻ đẹp ấy mang lại cho thiên tùy bút hưởng một khúc hùng ca.
- Qua hình tượng nhân vật ông lái đò không chỉ thấy cái tâm của nhà văn với cuộc đời và con người mà còn thấy rõ tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Nguyễn Tuân đã sáng tạo một tình huống độc đáo để làm nổi bật phẩm chất của nhân vật. Tô đậm sự hung bạo của sông Đà chính là cách nhà văn làm bật lên nét trí dũng, tài hoa ở ông lái đò. Đây là thủ pháp “vẽ mây nẩy trăng” quen thuộc trong văn học.
+ Nguyễn Tuân đã sử dụng kho từ ngữ phong phú, đầy cá tính, giàu chất tạo hình với những liên tưởng so sánh bất ngờ mà vô cùng chính xác để khắc họa chân dung nhân vật.
THAM KHẢO THÊM: