Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại châu Âu từ ngày 28/7/1914 đến ngày 11/11/1918. Vậy đâu là nguyên nhân gây nên cuộc đại chiến khủng khiếp này? Cuộc đại chiến này kết thúc đã để lại những hậu quả gì? Nhân loại có thể học được những gì sau trận chiến này?
1. Nguyên nhân bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ nhất:
1.1. Nguyên nhân sâu xa:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản quan hệ giữa các nước đế quốc chủ nghĩa. Bên cạnh các đế quốc “già” như Anh, Pháp có hệ thống thuộc địa rộng lớn, còn có các đế quốc “trẻ” như Mỹ, Đức, Nhật tuy phát triển về kinh tế nhưng lại có quá ít thuộc địa.
Trong cuộc chiến tranh giành thuộc địa, Đế quốc Đức là hung hãn nhất vì đây là nước có nền kinh tế và quân sự hùng mạnh nhưng thuộc địa lại rất ít. Thái độ của Đức đã làm căng thẳng quan hệ quốc tế châu Âu, đặc biệt là quan hệ giữa các nước đế quốc. Cụ thể, từ những năm 1880, giới cầm quyền Đức đã xây dựng kế hoạch chiến tranh nhằm chiếm hầu hết lãnh thổ châu Âu, mở rộng sang các thuộc địa của Anh và Pháp ở châu Phi và châu Á. Đến năm 1882, Đức, Áo-Hung và Ý thành lập một liên minh ba bên (được gọi là Nhóm Liên minh). Ý rời Liên minh sau đó vào năm 1915 và chống lại Đế quốc Đức để ủng hộ Đồng minh (Anh, Pháp, Nga). Nhóm hiệp ước do người Anh đứng đầu là những người theo chủ nghĩa đế quốc, trực tiếp chống Đức. Ba nước Anh, Pháp, Nga tuy có tranh chấp thuộc địa nhưng vẫn phải nhượng bộ nhau để ký kết các hiệp ước song phương: Pháp-Nga (1980), Anh-Pháp (1904), Anh-Nga. 1907), thành lập phe Hiệp ước.
Do đó, vào đầu thế kỷ 20, hai khối quân sự đối lập đã được hình thành ở châu Âu, Liên minh và Hiệp ước. Cả hai khối đều nuôi mộng xâm lược, cướp đoạt lãnh thổ, thuộc địa của nhau, tăng cường tranh giành nguồn cung cấp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chiến tranh là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc do vấn đề thuộc địa, đặc biệt là giữa Đế quốc Anh và Đế quốc Đức. Còn được gọi là nguyên nhân trực tiếp của chiến tranh.
1.2. Nguyên nhân trực tiếp:
Vào ngày 28 tháng 6 năm 1914, một người Xecbi đã sát hại thái tử Áo – Hungary ở Boxnia. Quân phiệt Đức và Áo nhân cơ hội gây chiến. Dù nhận được nhiều lời khuyên không nên đến đây nhưng thái tử vẫn muốn đến và bị người của tổ chức Bàn Tay Đen sát hại. Sự kiện này đã gây chấn động thế giới vào thời điểm đó. Và đây chính là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến tranh bùng nổ. Nhưng thực chất đó chỉ là “giọt nước làm tràn ly”, chỉ là cái cớ để các bên chính thức tuyên chiến sau một thời gian dài chuẩn bị khí tài cho chiến tranh. Chiến tranh nổ ra do sự xung đột của các nước châu Âu và đã chín muồi, các bên đối địch từ lâu đã mâu thuẫn đối kháng và muốn tiêu diệt lẫn nhau bằng quân sự để phân chia thế giới.
2. Diễn biến của Đại chiến thế giới thứ nhất:
2.1. Giai đoạn thứ nhất: 1914-1916:
Khi các cuộc đàm phán giữa chính phủ Áo-Hung và chính phủ Xecbi thất bại, Áo – Hungary quyết định tuyên chiến với Xecbi vào ngày 28 tháng 7 năm 1914. Đức phải chiến đấu trên hai mặt trận. Vào ngày 1 tháng 8, Đức tuyên chiến với Nga. Vào ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp và vào ngày 4 tháng 8, Vương quốc Anh tuyên chiến với Đức. Từ đây nổ ra cuộc chiến tranh đế quốc rồi nhanh chóng lan rộng thành chiến tranh thế giới.
Mở đầu chiến tranh, Đức định đánh nhanh thắng Pháp rồi gây chiến với Nga. Vì vậy, Đức tập trung phần lớn binh lực cho Mặt trận phía Tây và xâm chiếm Bỉ (nước trung lập) vào đêm 3/8/1914 , rồi đánh sang Pháp. Đức đóng đường ra biển để ngăn quân tiếp viện của Anh đến. Paris đang gặp nguy hiểm, quân đội Pháp có nguy cơ bị tiẻu diệt.
Cùng lúc đó, quân đội Nga tấn công Đông Phổ ở Mặt trận phía Đông, buộc Đức phải điều quân từ Mặt trận phía Tây để chống lại quân Nga. Paris được cứu. Chớp thời cơ, đầu tháng 9 năm 1914, quân Pháp mở cuộc phản công và giành được thắng lợi trên sông Macno. Quân đội Anh cũng đổ bộ vào lục địa châu Âu. Kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của Đức thất bại. Quân đội hai bên rút vào chiến hào và cầm chân nhau trên chiến tuyến dài 780 km từ Biển Bắc tới biên giới Thụy Sĩ.
Năm 1915, Đức lại tập trung binh lực ở mặt trận phía đông cùng quân đội Áo-Hung tấn công dữ dội vào Nga với mục đích đè bẹp Nga. Chế độ Nga hoàng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, nhưng Đức vẫn chưa đạt được mục tiêu loại Nga ra khỏi cuộc chiến. Vào cuối năm, hai bên giữ mặt trận khoảng 1.200 km từ sông Dnieper đến Vịnh Riga. Vào năm thứ hai của cuộc chiến, 1915, cả hai bên đều áp dụng các phương tiện chiến tranh mới, chẳng hạn như xe tăng, sử dụng máy bay để trinh sát và ném bom, thậm chí cả khí độc. Kết quả là cả hai bên đều thiệt hại khá nặng nề, và nền kinh tế cũng bị thiệt hại nghiêm trọng.
Cho đến năm 1916, khi thất bại trong việc tiêu diệt quân đội Nga, Đức lại chuyển trọng tâm sang Mặt trận phía Tây và bắt đầu chiến dịch tấn công Vecdoong nhằm tiêu diệt đội quân chủ lực của Pháp. Các trận chiến ở đây rất ác liệt và kéo dài từ tháng 2 đến tháng 12 năm 1916, gần 700.000 người thiệt mạng và bị thương. Quân Đức vẫn không thể chiếm được thành phố Verdong và buộc phải rút lui. Cuộc chiến năm 1916 không dành lợi thế cho bên nào và tiếp tục giữ vững vị thế của mình. Từ cuối năm 1916, Đức và Áo-Hungary ở thế phòng ngự trên cả hai mặt trận.
2.2. Giai đoạn thứ hai: 1917-1918:
Tháng 2-1917, nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đã làm thành công cuộc cách mạng dân chủ tư sản với các khẩu hiệu “Đả đảo chiến tranh”, “Đả đảo Nga hoàng”, “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Một chính phủ lâm thời tư sản được thành lập, tiếp tục chiến tranh.
Khi đó, Đức muốn cắt đứt đường tiếp tế đường biển của quân đồng minh nên đã áp dụng ngay một loại vũ khí mới – tàu ngầm. Chiến tranh tàu ngầm gây thiệt hại lớn cho nước Anh. Ban đầu, Hoa Kỳ vẫn “trung lập” trong cuộc chiến. Trên thực tế, Mỹ muốn lợi dụng chiến tranh để bán vũ khí cho cả hai bên, và khi chiến tranh kết thúc, dù thắng lợi hay bạo lực, các nước liên quan đều bị suy yếu trong khi Mỹ khẳng định ưu thế của mình. Nhưng trước năm 1917 phong trào cách mạng dâng cao ở các nước, Mỹ thấy cần phải chấm dứt chiến tranh nên đã tham gia Hiệp ước.
Vào ngày 2 tháng 4 năm 1917, Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức với lý do tàu ngầm Đức vi phạm quyền tự do thương mại trên biển và thậm chí tấn công các tàu chở hàng neo đậu tại các quốc gia thuộc nhóm “Hiệp ước”. Sự tham gia của Mỹ có lợi hơn nhiều cho các đồng minh Anh, Pháp và Nga. Năm 1917, quân Đồng minh phản công thất bại. Pháp và Anh đã cố gắng chọc thủng phòng tuyến của quân Đức và giải phóng vùng ven biển, nhưng họ đã không thành công. Các cuộc tấn công của Nga cũng thất bại. Áo-Hung do dự tìm kiếm hòa bình, nhưng Nga và Ý vẫn rất tham vọng và không chấp nhận đàm phán. Đức tập hợp lại lực lượng chống lại Nga và loại Ý ra khỏi cuộc chiến.
Tháng 11 năm 1918, người Nga đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của đảng của Lenin và Bonsevich thông qua một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa – gọi là cách mạng. Tháng 10 (theo lịch Nga). Nhà nước Xô viết được tạo ra bởi một hành động hòa bình, kêu gọi chính phủ của các nước tham chiến chấm dứt chiến tranh. Đồng minh không hưởng ứng lời kêu gọi hòa bình của Liên Xô vì Anh, Pháp và Mỹ muốn kết thúc chiến tranh thắng lợi. Để bảo vệ chính quyền ra đời trong hoàn cảnh đó, nhà nước Xô Viết buộc phải ký riêng với Đức Hiệp ước Bret Litop vào ngày 3/3/1918, khi Nga rút khỏi cuộc chiến tranh đế quốc.
Đầu năm 1918, quân Đức mở liên tiếp cuộc tấn công quy mô lớn vào mặt trận Pháp do quân Mỹ chưa đến được châu Âu. Chính phủ Pháp rời Paris một lần nữa. Tháng 7 năm 1918, 650.000 lính Mỹ đổ bộ vào châu Âu, trang bị vô số vũ khí và đạn dược. Mỹ trực tiếp tham chiến khi cả hai bên đều thiệt hại quá nhiều và đã rất mệt mỏi nên đã trở thành kẻ đứng đầu nhóm đồng minh. Nhờ đó mà quân Pháp và Anh quay lại phản công mạnh mẽ quân Đức trên các mặt trận. Ngày 18 tháng 7 năm 1918, quân đội Pháp với 600 xe tăng đã chọc thủng phòng tuyến của quân Đức tại sông Macno và bắt đi 30.000 tù binh. ngày 8 tháng 8. Liên quân Anh-Pháp với 400 xe chi viện đã phá phòng tuyến Xen-xi, tiêu diệt 16 sư đoàn Đức. Ngày 12 tháng 9, liên quân Pháp-Mỹ tấn công Xanh Mihien – tuyến phòng thủ quan trọng của quân Đức.
Từ cuối tháng 9 năm 1918, quân Đức lần lượt thất bại, phải tháo chạy khỏi lãnh thổ của Pháp và Bỉ. Đồng minh của Đức liên tục bị tấn công và buộc phải đầu hàng. Đứng trước nguy cơ thất bại, chính phủ mới thành lập ở Đức ngày 3/10/1918 đề nghị đàm phán với Mỹ nhưng điều này không được chấp nhận và Mỹ muốn chiến đấu đến cùng để buộc Đức phải đầu hàng vô điều kiện. Trước tình hình đó, Đức phải ký hiệp định đầu hàng vô điều kiện vào ngày 9 tháng 11 năm 1918. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của Áo-Hung trước Đức.
Tìm hiểu thêm bài viết: Tính chất và tóm tắt diễn biến Chiến tranh thế giới thứ nhất
3. Kết cục của Đại chiến thế giới thứ nhất:
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã gây ra những thảm họa vô cùng nghiêm trọng cho nhân loại: khoảng 1,5 tỷ người bị cuốn vào cuộc chiến, 10 triệu người chết, hơn 20 triệu người bị thương. , nền kinh tế châu Âu sụp đổ. Nhiều thành phố, làng mạc, đường xá, cầu cống và nhà máy bị phá hủy. Chi phí của cuộc chiến là 85 tỷ đô la. Tất cả các nước châu Âu trở thành con nợ của Hoa Kỳ. Chỉ có Hoa Kỳ là được hưởng lợi từ chiến tranh nhờ việc bán vũ khí, hơn nữa đất nước không bị bom đạn tàn phá nhờ đó mà thu nhập quốc dân tăng gấp đôi và đầu tư nước ngoài tăng gấp bốn lần. Nhật sau cuộc chiến tranh chiếm lại một số đảo của Đức, củng cố vị thế ở Đông Á và Thái Bình Dương.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, thắng lợi của
Cán cân sức mạnh của các cường quốc có sự thay đổi đáng kể, các nước tư bản ở châu Âu suy yếu, trong đó có hai nước tư bản lâu đời là Anh và Pháp. Đế quốc Đức và Áo-Hung bị đánh bại.
Hệ thống Hiệp ước Versailles, và sau đó là hệ thống Hiệp ước Washington, được thiết kế để tổ chức lại thế giới thời hậu chiến để phù hợp với cán cân quyền lực mới, nhưng các đế chế thực sự đã phân chia lại các thuộc địa và khôi phục lại sự cưỡng bức và nô dịch. đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Tuy nhiên, sự phân chia lại quyền lợi và quyền lực sau Chiến tranh thế giới thứ nhất không giải quyết được những mâu thuẫn chủ yếu mà còn làm trầm trọng thêm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1939 bùng nổ.
4. Bài học rút ra từ cuộc chiến tranh:
Thứ nhất, Mặc dù chiến tranh thế giới thứ nhất gây ra nhiều bi kịch cho nhân loại, nhưng thông qua đó, chúng ta cũng tìm hiểu về lịch sử sẽ được truyền lại cho thế giới trong tương lai. Tính ích kỷ và tham vọng ở cấp độ quốc tế hoặc quốc gia dẫn đến những xung đột thù địch tiềm ẩn. Khi chiến tranh nổ ra, bao giờ kết quả cuối cùng cũng là những hậu quả nặng nề mà nó để lại cho các nước tham chiến.
Thứ hai, tốc độ tàn phá của chiến tranh là vô cùng khủng khiếp mà không ai có thể lường trước được, đặc biệt là trong điều kiện các mối quan hệ chặt chẽ cũng như sự phát triển của kinh tế, của cộng nghiệp hiện đại.
Thứ ba, lợi ích quốc gia là yếu tố hết sức quan trọng, luôn song hành với lợi ích chính đáng của đất nước. Nếu các nước không tôn trọng và bình đẳng với nhau thì tình hình quốc tế không thể ổn định.
Và cuối cùng, các xung đột quốc tế hay các quốc gia cũng phải được giải quyết kịp thời bằng các biện pháp hòa bình, tránh xung đột vũ trang với những sự kiện ảnh hưởng trực tiếp đến nhân loại. Khi một quốc gia bị dồn vào bước đường cùng, khi lợi ích của quốc gia đó bị xâm phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Hãy nhớ rằng vấn đề chiến tranh và hòa bình là vấn đề chung của toàn thế giới hiện nay. Khi chiến tranh nổ ra, nó dễ dàng kéo cả thế giới vào cuộc. Trước những hậu quả nặng nề của chiến tranh, loài người phải nhận thức rõ sự cần thiết phải ngăn chặn ngòi nổ của chiến tranh trước khi quá muộn.
5. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất có ý nghĩa gì đối với Việt Nam:
Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam. Pháp đã sử dụng nguồn nhân lực và tài chính của Việt Nam để hỗ trợ cho các hoạt động quân sự của mình. Nông dân Việt Nam đã được gửi đến châu Âu – 50.000 phục vụ trong quân đội, 50.000 làm việc trong các nhà máy của Pháp. Nhiều người trong số họ đã không trở về nhà. Để đáp ứng nhu cầu chiến tranh, thực dân Pháp đã vay Đông Dương 367 triệu phrăng.
Tuy nhiên, Chiến tranh thế giới thứ nhất đã để lại dấu ấn đối với Việt Nam không chỉ ở những tổn thất này. Từ năm 1914 đến năm 1918, 100.000 người Việt Nam đã biết các tư tưởng xã hội chủ nghĩa phát triển ở châu Âu. Trong những năm này, Hồ Chí Minh – người đang tìm đường cứu nước – sống ở châu Âu và sau đó gặp gỡ những người Pháp theo