Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước như thế nào?

Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước như thế nào?
Bạn đang xem: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước như thế nào? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Sự kiện Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05/06/1911 có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đầu tiên, thể hiện sự thính nhạy về thực tiễn tình hình với sự lựa chọn hành trình xuất phát từ thành phố Sài Gòn. Thứ hai, cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặt lớn trong cách mạng Việt Nam.

1. Xuất thân của Nguyễn Tất Thành:

Nguyễn Tất Thành, hay còn được biết đến với cái tên Hồ Chí Minh, là một nhà cách mạng vĩ đại của Việt Nam. Ông sinh ra tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An vào năm 1890. Là con trai của một gia đình nông dân bần hàn, Nguyễn Tất Thành đã trải qua một thời thơ ấu đầy khó khăn và gian khổ. Tuy nhiên, sự yêu nước và tình yêu đối với dân tộc Việt Nam đã truyền cảm hứng cho ông hình thành ý chí và sự kiên trì trong cuộc đấu tranh cho độc lập và tự do.

Từ nhỏ, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan và quyết tâm tìm đường cứu nước. Không chỉ chứng kiến mà ông còn đồng cảm với các sĩ phu yêu nước đứng dây khởi nghĩa rồi hy sinh, thất bại. Điều này lại càng thêm động lực cho ông để ra đi tìm đường cứu nước. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước tại Bến Nhà Rồng.

Để tìm được con đường cứu nước đúng đắn, người thanh niên khi ấy đã phải đi đến nhiều nước Châu Âu, Châu Á và thậm chí là Châu Phi. Ông đã phải trải qua nhiều khó khăn và gian khổ để tích lũy kinh nghiệm và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lớn hơn về sau. Với những cố gắng và nỗ lực của mình, ông đã đưa Việt Nam đến con đường cứu nước đích thực.

Sau đó, Nguyễn Tất Thành đã trở thành một nhà cách mạng vĩ đại và lãnh tụ của Quốc gia Việt Nam. Cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của ông đã trở thành một điển tích của sự hy sinh và tinh thần đấu tranh cho sự công bằng và tự do của dân tộc Việt Nam. Những cống hiến của ông đã trở thành nguồn cảm hứng và động lực cho nhiều thế hệ người Việt Nam sau này.

2. Vì sao Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước?

Trình bày nguyên nhân Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam:

Nguyễn Tất Thành là một trong những người tiên phong của phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Ông ra đi tìm đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam vì những nguyên nhân sau đây:

Nguyễn Tất Thành đã từ nhỏ đã phải sống trong hoàn cảnh nước nhà bị thực dân Pháp chiếm đóng. Điều này đã khiến cho ông nhận thức được tình yêu nước từ rất sớm.

Mặc dù trên khắp nước đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh, nhưng đều không thành công. Những thất bại này khiến Nguyễn Tất Thành càng cảm thấy đau xót và lo lắng hơn cho tình hình đất nước.

Đồng thời, ông cũng nhận thấy những hạn chế của các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX và cảm thấy rất khó khăn để tìm kiếm một con đường cứu nước mới cho dân tộc.

Nguyễn Tất Thành đau xót trước cảnh nước mất, nhà tan, đồng thời nhìn thấy những mặt hạn chế của các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Điều này đã thôi thúc ông ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.

Để tìm kiếm đường cứu nước mới cho dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, ông quyết tâm không bỏ cuộc và đã tiến hành hành trình tìm kiếm đường cứu nước cho dân tộc.

Vào giữa năm 1911, tại cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã lên tàu Đô Đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin để tiến hành hành trình tìm kiếm đường cứu nước cho dân tộc. Từ đó, ông đã tự đặt cho mình cái tên mới là Hồ Chí Minh, và trở thành một trong những nhân vật lớn của lịch sử Việt Nam.

=> Với những nguyên nhân trên đây, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam, và trở thành một trong những nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử Việt Nam.

3. Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước:

Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Nguyễn Ái Quốc không đồng ý đi theo con đường của một người nào. Người tìm kiếm con đường cứu nước khác.

Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.

Cuộc khảo sát ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Người hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.

Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ tại cảng Mácxây. Người nói với người bạn “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”.

Trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.

Nguyễn Tất Thành tới Mỹ vào giữa tháng 12-1912. Người lao động kiếm sống và học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.

Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh cuối năm 1913 và trở về Pháp cuối năm 1917.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789) giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng không đến nơi”.

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.

Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi lớn nhất thế kỷ XX, đưa loài người vào thời đại mới. Thời đại đánh dấu sự thăng tiến từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội toàn cầu, thời đại chiến thắng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho ít người hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?

Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngày trong Đảng Xã hội Pháp: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc không choáng ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác – Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.

4. Hành trình tìm ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc:

Cách đây 110 năm, vào ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành, một thanh niên trẻ tuổi đầy tài năng, đã bắt đầu cuộc hành trình khó khăn để tìm kiếm ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc và đất nước Việt Nam. Với niềm tin mãnh liệt và lòng yêu nước bất tận, Nguyễn Tất Thành đã rời bến Nhà Rồng – cảng Sài Gòn trên con tàu Đô Đốc Latouche-Tréville để đến với thế giới và tìm hiểu về chủ nghĩa Marx-Lenin. Nhờ sự vươn lên và phát triển tài năng của mình, Nguyễn Tất Thành đã trở thành một nhà hoạt động quốc tế xuất sắc và đồng sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau hơn 30 năm khổ luyện và trưởng thành, vào ngày 28/1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nguyễn Ái Quốc đã trở về Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng và vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của đất nước. Với sự sáng tạo và đam mê giúp đỡ đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo để làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Thành công của cuộc cách mạng đã đánh đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cuộc cách mạng đã đưa đến một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam.

Từ khi bước lên con tàu Đô Đốc Latouche-Tréville, Nguyễn Tất Thành đã trải qua những chặng đường dài và gian khổ để tìm kiếm sự sáng suốt về chủ nghĩa Marx-Lenin, từ đó đưa ra những quan điểm, phương châm phù hợp với tình hình Việt Nam thời bấy giờ. Những chặng đường khát khao độc lập, tự do của ông đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc. Nhờ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ, để đánh đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến, đem lại tự do, độc lập và sự phát triển cho đất nước.

Cuộc cách mạng đã không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam, mà còn là niềm cảm hứng cho các nước Châu Á, Phi, và Nam Mỹ. Việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và phát triển là một trong những mục tiêu quan trọng của đất nước. Những nỗ lực của những người anh hùng đã khơi gợi cảm hứng và động lực cho nhiều thế hệ sau này, giúp đưa đất nước Việt Nam phát triển và vươn lên trong hội nhập quốc tế.

5. Ý nghĩa lịch sử ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước:

Năm 1920, khi Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin, Việt Nam thuộc quyền thống trị của thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra nhưng thất bại. Có nhiều lý thuyết, nhiều chủ nghĩa, nhiều con đường và phương pháp để đấu tranh, nhưng không đạt kết quả tốt.

Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, nghiên cứu những bài học lịch sử và khảo nghiệm thực tiễn. Từ đó, ông thấy rằng mọi cách tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, đều không đạt kết quả tốt. Vì muốn độc lập cho Tổ quốc và tự do cho đồng bào, ông đã chọn Sài Gòn làm điểm xuất phát để đi nước ngoài.

Thứ ba, việc lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã đem lại những thành tựu vĩ đại trong thực tế cho nước ta như hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng Miền Bắc, và chiến thắng 30/4/1975 giải phóng đất nước. Tiến hành cách mạng XHCN với sự nghiệp đổi mới 33 năm qua thành công, đem lại những thành tựu trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.

Nguyễn Ái Quốc đã để lại cho chúng ta một mẫu mực trong việc nhanh nhạy với tình hình thời cuộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, từ đó định hướng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta, hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh mà Đảng ta đang phấn đấu.