Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức?

Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức?
Bạn đang xem: Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Các phong trào chính trị và xã hội có tổ chức nhằm chấm dứt chế độ nô lệ bắt đầu vào giữa thế kỷ 18. Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ trái ngược với tình trạng của hầu hết người da đen. Vậy Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức của Nhà nước chủ nô được nhận định ra sao?

1. Nhà nước chủ nô là gì?

Chế độ nô lệ được thiết lập như một thể chế hợp pháp ở mỗi trong số Mười ba thuộc địa, bắt đầu từ năm 1619 trở đi với sự xuất hiện của những người Phi nô lệ “hai mươi và lẻ” ở Virginia. Mặc dù các dân tộc bản địa cũng bị bán làm nô lệ, nhưng phần lớn dân số bị làm nô lệ bao gồm người châu Phi được đưa đến châu Mỹ qua con đường buôn bán nô lệ Đại Tây Dương. Do tỷ lệ mắc các bệnh nhiệt đới thấp hơn và được điều trị tốt hơn, dân số nô lệ ở các thuộc địa có tuổi thọ cao hơn ở Tây Ấn và Nam Mỹ, dẫn đến sự gia tăng dân số nhanh chóng trong những thập kỷ trước Cách mạng Hoa Kỳ.

Nhà nước Ai Cập cổ đại được nhận định là Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường.

Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội.

Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten (Hy Lạp) còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Một nhà nước chủ nô là một nhà nước mà chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ nội địa hoặc trong nước là hợp pháp, trong khi một nhà nước tự do là một nhà nước mà họ không hợp pháp. Trong khoảng thời gian từ năm 1812 đến năm 1850, các quốc gia chủ nô được coi là bắt buộc về mặt chính trị rằng số lượng các bang tự do không được vượt quá số lượng các bang nô lệ, vì vậy các bang mới được chấp nhận theo các cặp không có nô lệ. Tuy nhiên, có một số nô lệ ở hầu hết các nước tự do cho đến thời điểm điều tra dân số năm 1840, và Đạo luật Nô lệ chạy trốn năm 1850 đã quy định cụ thể rằng nô lệ không trở nên tự do bằng cách vào một quốc gia tự do.

Mặc dù người Mỹ bản địa có chế độ chủ nô quy mô nhỏ, chế độ chủ nô ở nơi sẽ trở thành Hoa Kỳ đã được thiết lập như một phần của quá trình thuộc địa hóa châu Âu. Đến thế kỷ 18, chế độ chủ nô là hợp pháp trên toàn bộ 13 thuộc địa, sau đó các thuộc địa nổi dậy bắt đầu bãi bỏ tập tục này. Pennsylvania đã bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1780, và khoảng một nửa số bang bãi bỏ chế độ nô lệ vào cuối Chiến tranh Cách mạng hoặc trong những thập kỷ đầu tiên của đất nước mới, mặc dù điều này thường không có nghĩa là những nô lệ hiện có được tự do. Mặc dù không phải là một trong Mười ba Thuộc địa, Vermont tuyên bố độc lập khỏi Anh vào năm 1777 và đồng thời hạn chế chế độ nô lệ, trước khi được công nhận là một bang vào năm 1791.

Nhà nước chủ nô cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội:

– Thứ nhất, trong nhà nước chủ nô thì tính giai cấp trong nhà nước chủ nô được xác định là công cụ bạo lực để duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối lưu lệ và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô với nô lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.

+ Chế độ nô lệ phương tây cổ điển hay còn gọi là chế độ nô lệ Hy – La Được đặc trưng bởi tính điển hình của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Nô lệ được xác định là chiếm một số lượng đông đảo trong xã hội khi ở trong loại hình nhà nước chủ nô này. Và nô lệ được biets đến là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội mà thực chất là cho chủ nô. Sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ là phổ biến và điển hình.

+ Chế độ nô lệ phương Đông cổ đại hay còn được nhắc đến đó chính là chế độ nô lệ gia trưởng ở trong thời kỳ này là loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc.

-Thứ hai, trong nhà nước chủ nô thì tính xã hội ở các nhà nước chủ nô khác nhau và ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính xã hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Đông

Chức năng của nhà nước chủ nô bao gồm chức năng đối nội và đối ngoại.

– Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

+ Một là, không thể nào có thể bỏ qua được chức năng củng cố và bảo vệ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ là một trong những chức năng đặc trưng, cơ bản nhất của nhà nước chủ nô, thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của nhà nước chủ nô.

+ Hai là, chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác không chỉ giai cấp nô lệ chịu sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của giai cấp chủ nô mà các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng chịu sự áp bức và bóc lột không kém phần tàn bạo từ phía giai cấp chủ nô.

+ Ba là, chức năng đàn áp về mặt tư tưởng các nhà nước chủ nô đều sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu cho sự nô dịch về mặt tư tư tưởng. Bên cạnh việc sử dụng bạo lực quân sự để đàn áp giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhà nước chủ nô còn thực hiện sự nô dịch về mặt tư tưởng đối với nô lệ và nhân dân lao động.

– Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

+ Một là, chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược là một trong những chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô. Điều kiện cho sự tồn tại của nhà nước chủ nô gắn liền với chế độ nô lệ, vì thế các nhà nước chủ nô hết sức coi trọng hoạt động tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ và tăng cường số nô lệ của quốc gia. Chế độ nô lệ càng phát triển thì chiến tranh càng tàn khốc.

+ Hai là, chức năng phòng thủ chống xâm lược, nhà nước chủ nô trong một chừng mực nhất định ngoài các chức năng đã nêu ở trên , tuỳ vào thời điểm cụ thể đã tiến hành những công việc chung bắt nguồn từ sự tồn tại của xã hội như: xây dựng các công trình công cộng, đường sá, tổ chức đắp đê chống lụt…,

4. Các hình thức của nhà nước chủ nô:

– Hình thức chính thể nhà nước chủ nô

Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức năng cơ bản giống nhau, nhưng do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là khác nhau nên trong nhà nước chủ nô có nhiều hình thức chính thể khác nhau. Lịch sử phát triển của nhà nước chủ nô gắn với các hình thức chính thể: quân chủ, cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.

+ Chính thể quân chủ chuyên chế phổ biến trọng các nhà nước phương đông cổ đại.

+ Chính thể cộng hoà dân chủ tồn tại ở nhà nước chủ nô Aten vào thế kỷ thứ V – IV trước công nguyên.

+ Chính thể cộng hoà quý tộc chủ nô tồn tại ở nhà nước Spác và La Mã.

– Hình thức cấu trúc nhà nước chủ nô

Tất cả các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc nhà nước đơn nhất.

– Về chế độ chính trị của nhà nước chủ nô

các nước phương Đông chủ yếu tồn tại chế độ độc tài chuyên chế. Ở các nước phương Tây, chế độ chính trị đã mang tính dân chủ, tuy nhiên về bản chất đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô. Về cơ bản, nền dân chủ được thiết lập ở những quốc gia này vẫn là chế độ quân phiệt, độc tài với đại đa số nhân dân lao động.