Phân bố dân cư là gì? Quá trình hình thành phân bố dân cư?

Phân bố dân cư là gì? Quá trình hình thành phân bố dân cư?
Bạn đang xem: Phân bố dân cư là gì? Quá trình hình thành phân bố dân cư? tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Phân bố dân cư là sự sắp xếp dân số một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ nhất định, phù hợp với điều kiện sống và các yêu cầu của xã hội. Để tìm hiểu kĩ hơn mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết Phân bố dân cư là gì? Quá trình hình thành phân bố dân cư?

1. Phân bố dân cư là gì?

Phân bố dân cư là việc tổ chức dân số một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ nhất định, thích hợp với điều kiện tự nhiên và đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Dân cư của một vùng là tập hợp những người dân cùng sinh sống trên một lãnh thổ nhất định (xã, huyện, tỉnh, thành phốlục địa hay toàn trái đất). Chẳng hạn: Dân cư Hà Nội, dân cư miền Trung, dân cư Việt Nam… Dân cư của một vùng lãnh thổ là đối tượng nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, ví dụ Y học, Vật lý, Ngôn ngữ học,…. Mỗi khoa học nghiên cứu một mặt, một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hộinghĩa là xác lập những đối tượng nghiên cứu riêng của mình.

Để xác định được mật độ dân cư đông hay thưa ở một khu vực, người ta dùng thuật ngữ mật độ dân số. Mật độ dân số là tỷ lệ dân số trên một đơn vị diện tích hoặc thể tích (có thể gồm hay không gồm các vùng nông nghiệp hay những vùng có tiềm năng phát triển). Thông thường mật độ dân số sẽ được tính  một vùng, đô thị, quốc gia, một đơn vị lãnh thổ, hay là toàn thế giới.

Hiện nay cách tính mật độ dân số sẽ được tính bằng cách lấy số người đang sống ở một vùng địa lý hoặc một không gian cụ thể chia cho tổng diện tích nơi họ đang sống hay làm việc:

Mật độ dân số = Số người / Diện tích đất

Trong đó đơn vị của mật độ dân số là km2/người, mật độ người/ha. Đơn vị diện tích đất km2. Đơn vị số hộ là người.

Ví dụ: Mật độ dân số đồng bằng sông Hồng là thước đo dân số đồng bằng sông Hồng trên một đơn vị diện tích. Năm 2002 đồng bằng sông Hồng có diện tích là 14.806 km2 và dân số là 17,5 triệu người. Vậy mật độ dân số tại đồng bằng sông Hồng là:

17,500,000: 14806 km2 = 1182 người/km2.

Mật độ dân số càng cao cho biết mức độ phân bố dân cư ngày càng cao và ngược lại.

2. Quá trình hình thành nên sự phân bố dân cư:

Vào những ngày đầu của lịch sử, con người sinh sống chủ yếu ở các vùng đất khí hậu ấm  châu Phi, châu Á. Ở giai đoạn tiếp theo, nhiều tập đoàn người đã đến cư trútừ đó địa bàn cư trú dần mở rộng ra cả những lục địa khác và ngày nay, con người sinh sống gần khắp mọi nơi trên trái đất.

Như vậy là, từ cái nôi ban đầu của xã hội con người đã dần đi sang những lục địa khác trên trái đất để sinh sống và tạo thành sự phân bố dân cư của nhân loại ngày nay.

Trên trái đất, có chỗ đông dân cư, nhưng cũng có chỗ dân cư rất thưa thớt. Ở lúc đầu, sự phân bổ dân cư theo lãnh thổ mang tính bản năng, như sự di cư của một vài loài chim vậy. Nhưng với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất, thời kì này nhanh chóng chấm dứt và nhường chỗ cho sự phân bố dân cư có ý thức và có trật tự.

3. Đặc điểm của phân bố dân cư:

– Tình trạng phân bố dân cư không đồng đều trong trái đất:

Theo điều tra dân số năm 2005, trên trái đất có gần 6500 triệu người với mật độ trung bình về mặt dân số là 48 người/km2. Tuy nhiên việc phân bố dân cư lại không đồng đều, có những vùng dân số tập trung rất lớn, rất đông dân cư nhưng có những vùng dân cư thưa thớt, nghèo nàn, thậm chí có một số vùng dân cư không có sự sinh sống của loài người. Đây là một tình trạng đáng báo động  sự phân bố dân cư không được đều trên thế giới ngày nay.

+ Dân cư tập trung đông ở Tây u, Nam u, Đông Á, Đông Nam Á

+ Dân cư tập trung ít ở Trung Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Đại Dương, Bắc Á, Trung Á, Trung Nam Mỹ.

– Mật độ phân bố dân cư biến động theo thời kỳ:

+ Mật độ phân bố dân cư có tình trạng giảm xuống ở châu u và châu Á.

+ Mật độ phân bố dân cư có tình trạng tăng dần ở châu Đại Dương, châu Phi và châu Mỹ.

– Quy mô dân số đông và tăng nhanh:

Mức dân số đạt khoảng 7795 triệu người (số liệu đến năm 2020), tăng khoảng 5259 triệu người so với năm 1950.

– Tốc độ gia tăng dân số có sự khác nhau giữa từng giai đoạn:

+ Giữa thế kỉ XX là giai đoạn có tốc độ gia tăng dân số cao nhất, đó là giai đoạn dẫn đến sự bùng nổ dân số

+ Hiện nay, tốc độ gia tăng dân số đã có chiều hướng suy giảm, minh chứng rõ ràng nhất điều đó nằm ở việc trong giai đoạn 2015 – 2020, tốc độ gia tăng dân số sẽ đạt trung bình 1,1%/năm.

– Giữa các nhóm nước, giữa các quốc gia, giữa các vùng và giữa những quốc gia có cơ cấu dân số không tương đồng nhau:

+ Nhóm các nước đang phát triển chiếm 84%, nhóm các nước ở khu vực châu Á chiếm 60%, nhóm 14 quốc gia đông dân chiếm 64% dân số thế giới, đây là các số liệu được tổng hợp vào năm 2020.

+ Trong khi đó, căn cứ theo số liệu thống kê, người ta có thể thấy Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có mức độ dân số đông nhất thế giới (chiếm khoảng 36%).

Có nhiều nhân tố tác động đến phân bố dân cư bao gồm:

– Điều kiện tự nhiên: Khí hậu, sông suối, địa hình, đất đai, khoáng sản, . . thuận lợi thu hút cư trú.

– Điều kiện kinh tế – xã hội: Phương thức sản xuất (tính chất nền kinh tế), trình độ phát triển kinh tế, . .. quyết định phân bố cư trú.

Ngoài ra, lịch sử khai phá lãnh thổ lâu dài, cư trú đông, di dân, . .. cũng là các nhân tố tác động đến phân bố dân cư..

4. Tình hình phân bố dân cư trên thế giới:

Tổng diện tích của hành tinh Trái Đất là 510 triệu km2, trong đó các đại dương chiếm tới 3/4 diện tích tổng, còn lại là đất liền của các lục địa và các hải đảo nơi con người đã định cư (trừ châu Nam Cực). Dân số toàn cầu đang ngày càng gia tăng. Xuất phát từ những vùng định cư đầu tiên trên châu Phi và châu Á, con người đã lan tỏa ra các lục địa khác trong những thời kỳ khác nhau để thực hiện sinh sống và kinh doanh. Mô hình phân bố dân cư trên Trái Đất có hai đặc điểm quan trọng: sự thay đổi theo thời gian và phân bố không đồng đều trong không gian.

4.1. Sự biến động về phân bố dân cư theo thời gian:

Con người xuất hiện từ lâu trên trái đất và đã có nhiều sự thay đổi về phân bố theo các lục địa. Người ta ước tính rằng lúc đầu con người có khoảng 12,5 vạn và lúc bấy giờ mật độ dân số là 0,00025 người/km2. Tiếp theo số dân tăng lên 1 triệu, phân bố chủ yếu ở châu Phi, châu Á, châu u với mật độ 0,012 người/km2.

Bước vào thời kỳ nông nghiệp, loài người sống tập trung hơn, tuy nhiên mật độ không đều giữa các châu: 1 người/km2 ở châu Á, Phi, u và 0,4 người/km2 ở các châu lục còn lại. Đến năm 1650, dân số thế giới là hơn 500 triệu, mật độ trung bình là 3,7 người/km2. Đến năm 1995, mật độ dân số trung bình của thế giới đã đạt 38,3 người/km2.

Nếu tính từ giữa thế kỉ XVII cho đến ngày nay, chúng ta có thể thấy được sự thay đổi rõ ràng hơn về cơ cấu dân cư trên thế giới. Dân cư lập trung đông nhất ở châu Á và ít nhất ở châu Đại Dương. Qua thời gian, số dân ở châu Á có thay đổi đôi chúttuy nhiên vẫn cách xa những lục địa khác. Tình hình này là  châu Á là một lục địa lớn, một trong những chiếc nôi văn minh đầu tiên của loài người, có tốc độ tăng trưởng tự nhiên cao và ít bị tác động của những cuộc di dân liên lục địa.

Ở các lục địa châu Á, sự thay đổi diễn ra phức tạp hơn nhiều, số dân khi tăng, khi giảm. Trong giai đoạn từ giữa thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XVIII, số dân châu Âu khá đông. Sau nữa, số dân tăng nhanh vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhờ sự gia tăng cục bộ, sau giảm dần, một phần do xuất cư, nhưng phần lớn do mức tăng tự nhiên giảm sút. Dân số châu Phi bị giảm rất mạnh do có ảnh hưởng của sự xuất cư. Trong khi đấydo những làn sóng di cư liên tiếp từ châu Phi và châu Âu, dân số châu Mỹ tăng lên nhanh chóng. Riêng châu Đại Dương số dân khá ít so với số dân thế giới và cũng chỉ tăng lên chút ít từ khi có những làn sóng di dân từ châu u tới.

Vào năm 1750 dân số châu Á chiếm 63% dân số thế giới, châu u 21%, châu Phi 13%, châu Mỹ Latinh – Caribe 2% và Bắc Mỹ chỉ chiếm 0,3%. Sau năm 1750, sự quá độ dân số đã bắt đầu ở châu Đại Dương, tỉ lệ tử giảm, dân số tăng lên đồng thời bắt đầu có các làn sóng di cư tới Bắc Mỹ.

Từ năm 1900 dân số châu Âu và Bắc Mỹ tăng lên (châu u 25% và Bắc Mỹ 5%). Trong khi đó  sự tăng trưởng dân số quá chậm ở châu Á và châu Phi cho nên tỉ lệ dân số châu Á mới chiếm 57% và châu Phi là 8% dân số thế giới. Từ đầu thế kỉ XX mức sinh bắt đầu giảm ở châu u, đồng thời mức tử vong cũng giảm ở châu Á và châu Phi. Trong khoảng 1900 – 1995, dân số châu u giảm từ 25% xuống còn 13% dân số thế giới, nhưng châu Á tăng nhanh chóng và chiếm 60%, châu Phi cũng tăng lên 13% dân số toàn cầu.

4.2. Sự phân bố không đồng đều của dân cư theo không gian:

Nhìn tổng thể trên toàn cầu, tình trạng phân bố dân số vô cùng không đồng đều: có những khu vực dày dạn dân, những vùng dân ít, và thậm chí có những nơi không có ai định cư. Năm 1992, mật độ dân số trung bình trên toàn thế giới là 36,4 người/km2, tuy nhiên khi xem xét từng vùng, sự khác biệt về tình hình dân cư rất rõ ràng. Có những vùng tập trung dân số cực cao, như vùng đồng bằng châu Á với đất trù phú và nền nông nghiệp chủ yếu là lúa nước. Ở những nơi như hạ lưu sông Trường Giang, châu thổ Tây Giang, đảo Java, và đồng bằng Bangladesh, mật độ dân số có thể lên đến vài ngàn người trên mỗi km2.

Cũng trong số các vùng đông dân, Tây Âu được khai thác dân cư suốt nhiều thế kỷ, tuy nhiên có những đặc điểm riêng. Rừng và thảo nguyên lớn đã được chuyển đổi thành đồng cỏ để phục vụ nông nghiệp. Nhưng tại đây, sức hấp dẫn chính là hoạt động công nghiệp. Các nhà máy và xí nghiệp nổi lên, tạo nên những thành phố có dân số từ vài chục ngàn đến hàng triệu người, tạo nên những vùng đô thị dày đặc. Khu vực có mật độ dân số cao nhất bao gồm vùng lân cận London (thủ đô nước Anh), dọc bờ sông Rhine (Liên bang Đức) và cả hai bên sông Meuse (nằm ở Đức, Bỉ, Hà Lan…).

Mặt khác, những vùng băng giá và xích đạo Bắc Băng Dương (bao gồm Greenland, quần đảo Bắc Canada, phần Bắc Siberia và Viễn Đông của Nga); các vùng hoang mạc mênh mông tại châu Phi (Sahara…) và Úc; khu vực rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ (Amazon) và châu Phi; cũng như những vùng núi cao, hầu như không có dấu vết cư trú của con người. Mật độ dân số trong những vùng rộng lớn như này có thể thấp chỉ còn 1 người/km2.