1. Dàn ý phân tích 12 câu thơ đầu trong bài thơ Trao duyên:
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm
Tham khảo các mẫu: Mở bài Trao duyên trích Truyện Kiều
Thân bài:
Lời cậy nhờ của Thúy Kiều:
Lời nói:
– “Cậy”: đồng nghĩa với “nhờ”, ngoài ra còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi mang được những sự tin tưởng về sự giúp đỡ đó. -> Âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói.
– “Chịu”: đồng nghĩa với “chấp nhận” nhưng mang nghĩa nặng hơn là buộc phải chấp nhận, nhất quyết không thể từ chối.
=> Ngôn ngữ vừa van xin, van xin, vừa gượng ép.
Hành động, cử chỉ: “cúi đầu”, “thưa anh”
– Thái độ cung kính, trang trọng của cấp dưới đối với cấp trên hoặc với người mà mình mang ơn.
– Hành động của Kiều tạo nên sự trang trọng, thiêng liêng cho điều sắp nói.
=> Cho thấy sự thông minh, tài trí của Thúy Kiều.
– Những lý lẽ trao duyên:
– Nhắc lại một tình yêu đẹp để gợi tình cảm (4 câu đầu)
+ “đứt gánh thương yêu”
+ “Mối tơ thừa”
+ “Quạt ước, chén thề”
=> Thuý Kiều đã giải bày cho em mối tình dang dở.
– Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:
+ Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “não nào”
=> Kiều rơi vào tình thế khó xử dẫn đến mối tình Kim – Kiều dang dở, bất hạnh.
Kiều buộc phải lựa chọn giữa tình yêu và chữ hiếu nên đã chọn hy sinh chữ tình.
+ Thụy Vân còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
+ “Tiếc máu đào thay nước lã” -> Đề cập đến tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống để thuyết phục bạn.
+ “Thịt nát xương mòn”, “Nụ cười chín suối” -> Kiều đã dùng đến cái chết để tỏ lòng thành thật khi Vân nhận lời.
-> Lời cầu xin đầy lí lẽ và sức thuyết phục khiến Vân không thể từ chối.
=> Qua tất cả những lí lẽ chí tình mà Kiều đưa ra cho thấy Kiều là một người con gái thông minh sắc sảo, sống tình cảm, giàu đức hi sinh, một người con gái hiếu thảo và giàu tình cảm.
Nghệ thuật: đánh giá lại giá trị nghệ thuật.
Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật và nêu quan điểm, cảm nhận của bạn về bài thơ
Xem thêm các mẫu: Kết bài Trao duyên trích Truyện Kiều
2. Phân tích 12 câu thơ đầu Trao duyên (trích Truyện Kiều):
Mẫu số 1:
Cuộc đời chìm nổi của những người phụ nữ thời phong kiến xưa đầy đau thương, họ phải trải qua nhiều bi kịch đau lòng. Thân phận của nàng Kiều trong Truyện Kiều là một điển hình cho bi kịch và bất hạnh của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Trong cuộc đời “trường kỳ” của mình, nàng Kiều có mối tình đẹp với chàng Kim, những tưởng sẽ đơm trái ngọt nhưng nào ngờ, sợi tơ hồng mong manh không thể kết nối một mối tình trọn vẹn. Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm thể hiện rõ nỗi thống khổ, đau đớn, ân hận của nàng Kiều khi buộc phải trao duyên cho em gái. Mười hai dòng đầu của bài thơ được viết thật xúc động:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Với cả tấm lòng, Kiều xin được “cậy” cho em, không biết em có nhận lời không nhưng em vẫn đặt trọn niềm tin. Chữ “cậy” nghe thật xót xa nhưng thật thương cảm, dường như, bao nhiêu hy vọng, trông chờ và tin tưởng của cô đều nhờ Vân. Tiếng “nhận” nghe như van xin, van xin như đặt Vân vào thế không thể từ chối yêu cầu đó. Dù là chị, dù là bề trên của Kiều nhưng trước tình huống trớ trêu này, Kiều đã chọn cách “lạy” em, bởi Kiều biết dành tình cảm và sự hi sinh cao cả. Vân đành chấp nhận khi Kiều ngỏ lời yêu cầu. Giờ phút này, trong lòng Kiều có biết bao đau đớn, xót xa, tình yêu dành cho chàng Kim quá lớn mà số phận thật trớ trêu, nàng không thể thực hiện lời thề với chàng Kim. Không còn cách nào khác để trọn vẹn tình yêu, Thúy Kiều đau khổ nhưng phải nhờ đến Thúy Vân – người duy nhất mà nàng tin rằng có thể thay thế mối tình dang dở của mình với chàng Kim. Chỉ với hai câu thơ ấu mà ta thấy được một con người tinh tế, sâu sắc ở Kiều.
Sau khi mở lời, Kiều tâm sự những nỗi niềm của cuộc tình mình với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Gánh tương tư nặng lòng đến vậy mà lỡ “đứt gánh” sao không khỏi đắng cay. Vì chữ “hiếu” Kiều đành chấp nhận bán mình, chữ “tình” Kiều cũng không muốn bội bạc, đành ngậm ngùi:
“Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Hơn ai hết Kiều hiểu Vân sẽ đau khổ rất nhiều khi đáp lại yêu cầu này của nàng. Đối với Kiều, Kim là mối nhân duyên tốt đẹp, là mối tình trong mộng của cả cuộc đời, nhưng với Vân đó chỉ là “mắt xích thừa”, biết làm sao đành đành phó mặc cho dự định của mình. hãy tin tưởng ở tôi, tin rằng tôi sẽ hiểu được nỗi lòng của bạn. Lời đã nói, duyên đã trao, nhưng bao kỷ niệm êm đềm, hạnh phúc với người tình năm xưa cứ chực chờ, tràn về trong tiềm thức, Kiều nghẹn ngào tâm sự:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Khi nàng gặp Kim Trọng cũng là lúc tình yêu trong nàng chớm nở, “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, Kim Trọng đã đến, mang theo cho Kiều Bào bao niềm vui sướng, đêm cô hồn nâng chén rượu thề, lời thề vẫn nguyên vẹn. Từ “khi” càng cho thấy nỗi đau, nỗi nhớ, cả sự ân hận trong Kiều. Vân không biết chuyện Kiều có tình cảm với Kim nên Kiều chọn cách tâm sự với nàng và cũng mong Vân hiểu cho tình yêu của mình và trân trọng tình yêu của nàng, để nàng có thể cảm thông cho nàng lúc này.
“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Tình yêu chưa được hạnh phúc bao lâu thì gia đình gặp sóng gió. Chữ Hiếu, chữ Tình làm sao cho “hai mặt vẹn toàn”. Đó là một nỗi đau không nguôi. Vì nhà Kiều phải lỡ một mối nhưng không thể buông bỏ được. Đôi bên, Kiều mong Vân trả ơn Kim thay cho mình, dù đau đớn, dù biết tình yêu là thứ không thể gượng ép, nhưng Kiều đã bày tỏ lòng mình mong Vân nhận lời. Bà cũng hiểu lòng bà, nỗi đau xé lòng bà nhưng bà im lặng nghe bà nói tiếp:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều đã đưa ra những lời cảm thông để thuyết phục Vân. Ít nhất so với các bạn, tuổi trẻ của tôi còn nhiều, tuổi đời còn trẻ. Còn tôi, khi tôi chấp nhận bán thân, tuổi trẻ của tôi sẽ không còn nữa, còn biết bao nhiêu sóng gió phía trước. Kiều còn nói đến cái chết để Thúy Vân hiểu được ước nguyện tha thiết nhưng đau đớn của nàng. Tất cả những lý do đó khiến Vân khó lòng từ chối lời yêu, Vẫn sẽ hiểu hơn, thông cảm, trân trọng và yêu thương cô nhiều hơn.
Chỉ với 12 câu thơ, ta thấy được ở Kiều một tấm lòng tha thiết, thủy chung với tình yêu, một tấm lòng hiếu thảo đối với những bậc sinh thành cao cả. Sâu thẳm trong tâm hồn ấy là nỗi đau đớn, day dứt và chua xót khi tình yêu tuổi trẻ không trọn vẹn trong Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” là một nốt nhạc đau thương của một bản tình ca Kim-Kiều đẹp nhưng buồn khiến bất cứ ai từng lật trang sách về cuộc đời nàng cũng phải thổn thức cho một bi kịch tình yêu đầy éo le, ngang trái.
Xem thêm bài: Phân tích Trao duyên của Nguyễn Du
Mẫu số 2:
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học trung đại Việt Nam về ngôn từ, tác phẩm được mệnh danh là tác phẩm tiêu biểu nhất trong thể loại thơ và được xếp vào một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong thể loại thơ hàng kinh điển trong kho tàng văn học dân tộc, có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của người dân Việt Nam ta từ bao đời nay. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát có tổng cộng 3254 câu, nội dung kể về cuộc đời trắc trở của Thúy Kiều với 15 năm lưu đày. Tác phẩm được xếp vào loại kinh điển bởi nó chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc cùng với những giá trị hiện thực của tác phẩm, lòng trắc ẩn và đồng cảm với thân phận người phụ nữ, đồng thời khám phá và đề cao vẻ đẹp cả ngoại hình và tâm hồn của người phụ nữ dưới thời chế độ phong kiến còn rất bất công. Đoạn trích trong Truyện Kiều là một trong những đoạn trích xuất sắc và hay, diễn tả một trong những nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời Thúy Kiều, nỗi đau từ bỏ mối tình đầu, bán mình chuộc cha, lập công, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Trong đó, 12 câu thơ đầu diễn tả nỗi day dứt, đau khổ của Kiều khi phải dứt tình thương cho em gái.
Sau biến cố gia đình, cha và anh của Thúy Kiều bị bắt và tra tấn dã man buộc gia đình Kiều phải đưa một số tiền lớn mới thả nàng. Nhưng vốn dĩ gia sản của cải đã bị cướp sạch, chỉ còn lại mấy mẹ con Thúy Kiều, Thúy Kiều đành bán thân làm vợ lẽ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Điều này khiến Kiều vô cùng đau khổ, không những thế, việc bán mình lấy cớ còn đồng nghĩa với việc Kiều đã bội ước với Kim Trọng. Vì muốn vẹn cả đôi đường, Kiều đành nén đau thương dựa vào Thúy Vân để trả nghĩa cho Kim Trọng trong nỗi đau đớn, dằn vặt.
Ở hai câu thơ đầu: “Em tin anh, em xin nhận/ Ngồi dậy cho anh lạy em sẽ thưa với anh”, Kiều hiểu rõ sự tin cậy này vô cùng khó khăn không chỉ với mình mà còn cả Thuý Vân, gượng ép người chị lấy người mình không yêu là một điều khó nói. Vì vậy, Thúy Kiều đã rất cẩn trọng, rụt rè lựa chọn ngôn ngữ tế nhị để đặt Thúy Vân vào thế khó khiến nàng không thể từ chối. Kiều dùng từ “nhờ” chứ không dùng từ “nhờ” vì từ này vừa có nghĩa là nhờ vả, nó vừa thể hiện sự tin tưởng, hi vọng khẩn thiết mà Thúy Kiều gửi gắm, lại vừa thể hiện được sự khó xử, đau đớn trong lòng Kiều. Với hai từ “chấp nhận” càng thể hiện rõ nét sự tinh tế của Kiều trong cách dùng từ, ở đây hai từ này cho thấy Kiều đã hiểu và thông cảm cho thân phận của Thúy Vân, nàng hiểu rõ rằng mối tình này khá khó xử và vô cùng bất đắc dĩ, có lẽ rằng Thúy Vân sẽ tìm được thật khó để chấp nhận. Rõ ràng là Thúy Vân không yêu Kim Trọng, phải lấy một người mình không hề có tình cảm đã là một điều khó khăn, hơn nữa Kim Trọng còn là người yêu cũ của chị mình, chắc chắn rằng cuộc đời của Vân sẽ không bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. , bởi mỗi khi Kim nhìn Vân là nghĩ ngay đến Kiều. Và quả thật suốt 15 năm chung sống Kim Trọng vẫn luôn đi tìm Kiều, thử hỏi tình cảm của Vân được hiểu đến mức độ nào? Quả thực, đó là bi kịch lớn nhất trong đời người phụ nữ, dù ở xã hội phong kiến hay hiện đại. Dù Kiều đã hiểu ra mọi chuyện nhưng vì mẹ không cho phép mình nhượng bộ hay dừng lại, Kiều là người hiểu lễ nghĩa, biết rằng làm con thì phải có hiếu trước nhưng một mặt thì tình vẫn phải trọn nghĩa. Cuối cùng chị phải lựa chọn ích kỷ, trở thành kẻ ác khi ép em gái mình nhận món quà tình yêu cho trọn vẹn, nghĩ cũng vô cùng đáng thương. Và nếu nhìn lại, so với 15 năm sóng gió, đau khổ, tủi nhục của Kiều, thì việc Thúy Vân nhận lời yêu và trở thành vợ chồng với Kim Trọng cũng coi như gánh một phần trách nhiệm cho cuộc đời gia đình. Chuyện tình cảm khiến Kiều đau khổ và buồn bã vô cùng, không biết mở lời thế nào cho phải phép, đành phải lựa lời, nghe thật phi lý nhưng trong trường hợp này là Kiều là người phải xuống nước, đồng thời cần buộc Thúy Vân phải chấp nhận nên hai chữ “xin lỗi” ấy thường mang lại hiệu quả đặc biệt. Từ tình chị em, Thúy Kiều đã chuyển hóa nó thành mối quan hệ kẻ-ân, thể hiện sự kính trọng và lời cầu xin tha thiết đối với Vân, mong nàng dễ dàng chấp nhận hơn.
Sau màn giới thiệu đặt Thúy Vân vào thế không thể chối từ, Thúy Kiều bắt đầu thổ lộ tình cảm với Kim Trọng, bộc lộ nỗi niềm đau đáu trong lòng, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của mình đối với Kim Trọng cho mối quan hệ này.
“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”
Kiều và Kim Trọng không phải là tình yêu chớm nở mà thực chất đã đến mức nghiêm trọng, khi cả hai đã cùng nhau đính ước cả đời, trao nhau chiếc “quạt ước” trăm năm, rồi cùng nhau uống rượu. “Chén thề” thề nguyện bên nhau trọn đời dưới ánh trăng đẹp. Nhưng trong xã hội phong kiến, việc nam nữ trao nhau vật đính ước, cùng nhau thề nguyền được coi là định mệnh cả đời, là chuyện thiêng liêng không thể nói dứt, thì chẳng khác nào kẻ vô ơn bạc nghĩa. Vì vậy đối với Thúy Kiều đây là một việc hệ trọng khiến nàng day dứt, suy nghĩ suốt đêm. Việc Kiều từ bỏ tình yêu, trao lại tình yêu cho em gái cũng xuất phát từ sự bất đắc dĩ, bán thân là lẽ đương nhiên, nàng không thể trả lời Kim Trọng, tất cả chỉ vì cái gọi là “Chuyện đã rồi” một cô gái như Kiều không thể quay đầu lại. Thúy Kiều bị đặt vào một xung đột gay gắt khó giải quyết “Tại sao phải hiếu đôi bên?”, và cuối cùng, cuối cùng, Kiều vẫn lấy chữ hiếu làm đầu, cay đắng từ chối tình yêu, ơn em trả nghĩa cho Kim Trọng và hi sinh hạnh phúc, hi sinh thân mình để cứu cha và em Kiều chìm trong day dứt, đau đớn vì tình tan vỡ , vì tiếc cho mối tình “đứt gánh giữa đường”, đồng nghĩa với việc ngậm ngùi cho số phận tài hoa bạc mệnh của nàng.
Cuối cùng, Kiều đã chọn cách hoàn hảo nhất để ngỏ lời với người em gái mình, câu thơ vừa thể hiện sự buông bỏ trong lý trí nhưng cũng vừa thầm bày tỏ sự xót xa trong lòng Kiều. Không chỉ vậy, hai chữ “dư” còn là sự thương cảm của Kiều dành cho Vân, bởi nàng phải chấp nhận, phải gánh nợ thay cho cha, không có quyền lựa chọn cho mình một tình yêu trọn vẹn. Nhưng rồi biến chuyển gia đình, không cho Kiều suy xét thấu đáo mọi việc, cũng để Thúy Vân gánh vác một phần nào đó, dẫu nàng hiểu rằng “Ngày xuân của em còn dài”, biết rằng không có cuộc trao duyên này , Thụy Vân có lẽ sẽ tìm được một người chồng như ý, còn hơn là chôn vùi cuộc đời bên gánh nặng trách nhiệm lo cho em gái. Tuy nhiên, Kiều biết chắc Vân sẽ không từ chối, không nỡ từ chối vì ít nhiều nàng cũng “xót máu đào thay lời nước non” để giúp Kiều trọn lời. Chỉ có như vậy Kiều mới có thể “Dù thịt nát xương mòn/Tiếu môi suối nước vẫn thơm” bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thúy Vân, đồng thời cũng là những điềm báo xấu về tương lai, nhưng ít nhiều cô cũng yên tâm vì cả chữ hiếu và chữ tình, dù thế nào cũng không còn điều gì hối tiếc.
Như vậy, qua 12 câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” ta thấy được những nỗi buồn đầu tiên trong cuộc đời kém may mắn của Thúy Kiều, là điềm báo trước về một tương lai đầy sóng gió của nàng. Bên cạnh đó, qua cảnh giao tình, ta có thể nhận ra sự khéo léo, thông minh của Thúy Kiều khi giải quyết các tình huống dù khó khăn nhưng vẫn thỏa mãn. Đoạn trích cũng mang đến cho người đọc sự đồng cảm, xót xa cho cuộc đời Thúy Kiều, nỗi khổ khi phải dằn vặt bản thân trước chữ hiếu, chữ tình.
3. Cảm nhận 12 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên:
Mẫu 1:
Nhắc đến văn học trung đại Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. 3254 câu thơ với nhiều đoạn trích khác nhau, mỗi đoạn trích đều gửi gắm những giá trị vô cùng sâu sắc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của “Truyện Kiều”, tái hiện bi kịch tình yêu dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó gửi gắm những giá trị nhân văn sâu sắc và khát vọng hạnh phúc của con người. Điều này thể hiện rõ nhất trong 12 dòng đầu tiên của đoạn văn:
” Cậy em, em có chịu lời,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, yêu nhau và định thề dưới trăng. Tình yêu của họ là sự hợp tác tiền định. Định mệnh vốn dĩ là điều tốt đẹp, khó cưỡng cũng không nên cưỡng cầu. Thế nhưng, dòng đời đưa đẩy, Kiều quyết định “trao” mối lương duyên này. Đoạn trích mở ra nghịch cảnh đầy trớ trêu, thấm thía:
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ ngắn gọn mà chất chứa nỗi đau, sự day dứt. Từ “cậy” đặt ở đầu câu thơ nhấn mạnh hoàn cảnh éo le, khó khăn của Thúy Kiều. “Trust” có nghĩa giống như “thanks”, là hành động mong muốn được giúp đỡ. Nhưng “trust” sâu sắc hơn, thể hiện sự tin tưởng đối với người được hỏi. Tương tự với “nhận” cũng giống như “nhận” là đồng ý nhưng “chịu” mang thái độ tình cảm khẩn thiết, gần như van xin, đặt người nhận vào tình thế khó từ chối. Ngôn ngữ mà Kiều sử dụng trong lời ăn tiếng nói thật điêu luyện và chân thành.
Không những thế, lời nói đó còn đi kèm với hành động “cúi đầu”, “xin lỗi”, “lạy” “thưa” là hành động kính trọng của cấp dưới đối với cấp trên. Kiều là chị, Vân là em, nhưng lần này Kiều cũng làm như vậy. Những điều tưởng chừng nghịch lý khó hiểu nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Nàng không muốn giúp Kim Trọng, nhưng nàng cũng hiểu rằng nhờ em trả thay cho nàng, theo nhân duyên này là bất công và thiệt thòi cho Thúy Vân. Vì thế, Kiều đã cúi đầu trước Vân. Lúc này Kiều đứng ở tư cách là người mang ơn người giúp đỡ mình chứ không phải là người em kết nghĩa với mình. Điều này cho thấy sự hiểu biết khéo léo của cô ấy.
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Trong đau buồn, bao kỉ niệm tình đẹp ùa về. Nhưng thực tế trêu người, thành ngữ “đứt gánh tình duyên” càng nhấn mạnh nỗi đau của mối tình dang dở. Mối tình đẹp với Kim chưa kịp trọn vẹn thì đã bị sóng gió ngăn cản. Kiều đau khổ nhưng phải nén lòng gửi cho Vân. Nàng sử dụng điển cố để bày tỏ ý định muốn Thúy Vân lấy Kim Trọng. Đồng thời, cô cũng bày tỏ sự áy náy, day dứt khi biến sợi nhân duyên của mình thành “sợi chỉ thừa” dù đã nối duyên.
Điệp từ “khi” được lặp lại 3 lần gợi nhớ khoảng thời gian tươi đẹp, nhấn mạnh tình nghĩa sâu nặng với chàng Kim. Từ đó, nỗi đau, nỗi niềm trong tâm trạng Kiều càng hằn sâu khi nói ra những lời này. Cô đau đớn vì tình yêu tan vỡ, đồng thời cũng cảm thấy tủi thân trước hoàn cảnh trớ trêu của chính mình.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Quá khứ đẹp đẽ và quý giá, nhưng hiện tại thì khắc nghiệt. Lời thề dưới trăng còn đó nhưng tai họa ập đến, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha chuộc em. Giữa tình yêu và chữ hiếu, Kiều buộc phải đưa ra quyết định. Tình yêu đẹp vừa chớm nở, chưa kịp thành hình đã tan vỡ, lòng cô đau đớn khủng khiếp. Cô hết lòng thuyết phục Vân, mong cô hiểu và chấp nhận lời yêu cầu oan uổng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều đã khéo léo đưa ra ba luận điểm. Trước hết Vân còn trẻ, tuổi đời còn dài. Thứ hai là tình chị em ruột thịt. Cuối cùng là cái chết của chính mình. Mỗi lời nói đều thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Thúy Kiều. Kiều đã lựa chọn chữ hiếu, nhưng tình Kim rất trọng. Kiều nén nỗi đau mất mát của bản thân. Nàng chấp nhận tan xương nát thịt, chỉ mong Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Sâu thẳm trong tâm hồn vụn vỡ của Kiều là nỗi đau bị Kim Trọng phản bội và khát khao được bù đắp cho chàng mãnh liệt. Những lời khuyên Vân của Kiều thật chân thành và cảm động.
Chỉ với 12 câu thơ, Nguyễn Du đã vận dụng thành công thể thơ lục bát với ngôn từ tinh tế. Qua đó khắc họa bi kịch nghiệt ngã của Thúy Kiều và tâm trạng đau đớn, dằn vặt của nàng. Ngòi bút tài hoa và tấm lòng nhân đạo của tác giả đã tái hiện trọn vẹn nội tâm nhân vật. Không chỉ thể hiện sự khéo léo thông minh mà còn ca ngợi tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
12 câu thơ và đoạn trích “Thay duyên” từ đó góp phần không nhỏ làm nên giá trị đặc sắc của “Truyện Kiều”. Đã bao nhiêu năm trôi qua, Truyện Kiều vẫn sống mãi trong lòng người đọc, trở thành niềm tự hào văn chương của cả dân tộc Việt Nam.
Mẫu 2:
Nguyễn Du tên tự là Tố Như, sinh ra ở vùng quê hiếu học Hà Tĩnh, tuy sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng cuộc đời của ông đã phải trải qua nhiều biến động. Chứng kiến nhiều mảnh đời bất hạnh trong xã hội, người ta dễ cảm thông, sự đồng cảm ấy được ông đưa vào thơ. Nổi bật là tác phẩm “Truyện Kiều”, Kiều tuy tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu quá nhiều bất hạnh. Đầu tiên là bán mình chuộc cha và anh, từ bỏ cơ duyên chớm nở. Trong đoạn trích Trao duyên, 12 câu thơ đầu đã thể hiện rõ tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cảnh trao duyên được tái hiện ngay từ hai câu thơ đầu, cảnh vụng trộm của chị em Vân Kiều ở đây người đọc cũng có thể thấy được. Một bên là người chị Thúy Kiều đau đớn trao trọn tình yêu cho người em, còn cô em thì tiến thoái lưỡng nan khi phải chấp nhận mối duyên trời định. Ngôn ngữ Thúy Kiều sử dụng vừa là lời cầu cứu nhưng cũng có sự gượng ép trong đó, thể hiện qua những từ như tin bạn, nhận lời. Hành động “lạy” của Thúy Kiều còn thể hiện sự trang trọng, uy nghiêm khi chiếu cố mình.
Đến 10 câu thơ tiếp theo, những lời như rút ruột gan của Thúy Kiều đã được trút ra để cầu xin nàng đồng ý. Mối duyên với Kim Trọng vốn là một mối nhân duyên nhưng giờ đây “đứt gánh nặng tình”, nhận ra mình phải bán mình chuộc cha và không còn có thể cùng Kim Trọng đi tiếp con đường phía trước. Giờ đây, tôi “dây đàn mới” mong hai bạn nối tiếp mối lương duyên này, giữ trọn lời thề Kim Trọng.
Để Thúy Vân hiểu được hoàn cảnh của chính mình lúc này, Thúy Kiều giải thích rằng “nào có sóng dữ”. Khi cả Trọng và Kiều thề nguyền, không ngờ sóng gió lại ập đến nhanh như vậy, bản thân Kiều phải lựa chọn giữa “tình yêu”, và nàng chọn làm tròn bổn phận của một người con. Chữ “hiếu” đã vẹn tròn, còn chữ “tình” cô phải nhờ đến người chị “cháu mủi lòng” mới chấp nhận mối quan hệ này.
Sự nhận lời của Thúy Vân lúc này sẽ làm cho Thúy Kiều sung sướng vô cùng, sự nhận lời này chẳng khác gì một mối lương duyên. Thậm chí “dù thịt nát xương mòn” thì vẫn có thể “ngậm cười chín suối”. Vì những lời lẽ chặt chẽ, thuyết phục mà Thụy Vân không có cách nào từ chối.
Đọc những câu thơ này ta thấy được tình yêu sâu nặng của Kiều dành cho Kim Trọng, tình yêu của Kiều khi nàng chấp nhận hy sinh hạnh phúc riêng để cứu cha và em, làm tròn chữ “hiếu”, “của một đứa trẻ.
Đoạn trích “Trao duyên” của tác giả Nguyễn Du là bước mở đầu cho chuỗi ngày đau khổ sau này của Kiều. 12 dòng đầu của đoạn trích tuy ngắn nhưng cũng đủ cho ta thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du trong việc tả cảnh và tâm trạng nhân vật.