1. Dàn ý phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên ngắn gọn nhất:
* Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích Trao duyên
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Truyện Kiều được coi là kiệt tác văn học đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Đoạn tình (Truyện Kiều từ câu 723-756) là lời nói của Thúy Kiều với Thúy Vân.
– Khái quát nội dung 14 câu thơ giữa (câu 13-26): Tâm trạng của Thúy Kiều khi cùng mình chia kỷ vật và cho lời khuyên (độc thoại).
Tham khảo các mẫu: Mở bài Trao duyên trích Truyện Kiều
* Thân bài:
Hoàn Cảnh đoạn trích:
– Sau khi thu xếp việc bán mình để cứu cha và em, đêm hôm sau, Kiều buộc phải theo Mã Giám Sinh, Kiều tìm cách trả món nợ tình cho chàng Kim. “Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa/ dầu chong trắng đĩa, lệ tràng thấm khăn”, khi Thuý Vân tỉnh dậy ngỏ lời, Kiều đã xin em gái trả nghĩa Kim Trọng.
* Luận điểm 1: Tâm trạng nàng Kiều khi trao duyên, trao kỉ vật lại cho em (6 câu đầu)
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
* Luận điểm 2: Lời dặn dò của Kiều với Thúy Vân(8 câu sau)
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
* Đặc sắc nghệ thuật
– Khả năng hình tượng hóa và miêu tả nội tâm nhân vật
– Ngôn ngữ độc thoại sinh động
– Sử dụng từ ngữ nhuần nhuyễn
– Sự kết hợp giữa ngôn ngữ trong dân gian và hiện đại vô cùng độc đáo.
* Kết bài:
– Khái quát nội dung của 14 câu giữa bài Trao duyên.
– Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.
Xem thêm các mẫu: Kết bài Trao duyên trích Truyện Kiều
2. Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên (trích Truyện Kiều):
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh – Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Trao duyên là nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nhân dân, ông đã bôn ba và sống vất vả ở nhiều nơi khác nhau nên ông thấy được sự bất công, bất công của cuộc đời, nhất là người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. Qua trang đời của người tài nữ Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Trao duyên là nốt nhạc buồn mở đầu bằng tiếng đàn bạc tuổi mười lăm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu, Thúy Kiều tin tưởng em mình là Thúy Vân sẽ lấy Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp theo, Thúy Kiều đầy đau khổ, xót xa nhưng lại trao kỷ vật cho Thúy Vân và tin tưởng nhờ em chuyện sau này.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, lấy hiệu là Thanh Hiên, quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân- Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình rất danh giá, cha là đại thần nhà Lê và người anh cùng cha khác mẹ cũng làm quan trong triều. Tuổi thơ của ông đầy cơ cực, cha mẹ mất sớm, ông phải bôn ba nhiều nơi, có lúc cha về quê, khi mẹ về quê, có lúc ông phải tạm về quê vợ. . . ở Thái Bình. Có thể nói, cuộc đời lênh đênh với nhiều sóng gió, bôn ba bôn ba được tạo nên bởi Nguyễn Du, một người có học rộng, có tấm lòng yêu thương và cảm thương sâu sắc trước những mảnh đời cơ cực. Từ nhỏ, Nguyễn Du đã được coi là một thiên tài văn chương, một bậc thầy về chữ Quốc ngữ, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một kho tàng văn học phong phú gồm hơn một nghìn tác phẩm, có cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó không thể không kể đến Truyện Kiều. Đó là một kiệt tác được viết dựa trên một cốt truyện mới của nhà văn tài hoa Thanh Tâm, nhưng được sáng tạo và cải biên một cách tài tình cho phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu chuyện được kể trong 3254 câu thơ, Trao duyên bắt đầu từ câu 723 – 756.
Sau khi nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều đã trao kỉ vật định tình lại cho Thúy Vân:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành”, “tờ mây”
là những kỷ vật minh chứng cho tình yêu và lời hẹn ước của Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ niệm về một tình yêu đẹp mà Kiều không muốn buông bỏ, nay lại phải phó thác tất cả cho Vân. Đồ vật có thể trao cho người khác, nhưng cũng giống như việc truyền đạt tình cảm, tình yêu giữa hai người không thể trao cho bất kỳ ai. Đó là tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và Kim không thể bị kẻ thứ ba phá vỡ “Duyên này thì giữ” là để cho một kỷ niệm, nhưng không thể nào quên được kỷ niệm ấy chứng tỏ mối tình sâu nặng, thiết tha của Kim – Kiều. “Của chung” là vật đã từng thuộc về Kim và Kiều, nay lại thuộc về Kim và Vân khiến người ta đau đớn, ân hận. Nguyễn Du dường như căm giận chế độ xã hội tàn ác và lỗi thời đã làm gián đoạn tình yêu thiêng liêng và say đắm.
Kỷ niệm trao cho em nhắc Vân nếu đang hạnh phúc bên người yêu thì đừng quên đi chị:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Cho một kỷ niệm cũng là nhớ đến Kiều, Kiềutự cho mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác thương tiếc cho thân phận của mình. Nếu sợi tơ duyên tươi đẹp không còn nữa, thì sống trên đời này cũng chẳng ích gì. Ai cũng chỉ mong Thụy Vân tiếp tục giữ những kỷ vật và nhớ về người chị “mệnh bạc” ấy. Chút níu giữ đó là vật làm tin ( vật định tình ) của Kiều và Kim Trọng nay cũng trao đi rồi,, nhưng “phím đàn” vẫn còn như thể ai đó nhớ đến Kiều mỗi khi ai đó chơi nó. Bốn câu tiếp theo là điềm báo trước cái chết mà Kiều sẵn sàng chấp nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Tác giả dùng các từ giả định “mai sau”, “dù có” để thấy ý Kiều về tương lai của mình, Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai. Một người đương cái tuổi xuân đẹp nhất nhưng luôn nghĩ đến cái chết. Tâm nguyện duy nhất của Kiều là mong Thúy Vân nhớ đến hồn Kiều để Kiều bớt lẻ loi, cô đơn. Khi chơi, thắp hương hay nhìn ngọn cỏ, nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống thì dù chết cũng chỉ biết trông cậy cỏ cây không biết bấu víu vào đâu.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Hình ảnh trong từ “hồn”, “thân bồ liễu”, “ghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “thác oan” gợi ra cuộc sống như ở cõi âm, ma mị đầy tâm linh. Lời thề đó, lời hẹn đã cũ mặc dù đã được trao cho Thúy Vân thay Kiều trả nhưng không có nghĩa là Kiều đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên đi mối tình đó. Thậm chí kể cả khi nàng đã chết thì Kiều vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Khát vọng được gột rửa những oan khuất xuất phát từ quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Qua tài xây dựng nhân vật, miêu tả đời sống nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động và cách dùng từ điêu luyện, tác giả đã cho người đọc thấy được cảm giác vật vã, đau đớn và sau đó là tiếng kêu ngất, chua xót của Thúy Kiều. Đó là nỗi đau tột cùng của Kiều khi phải từ bỏ tình yêu của mình và Kim Trọng. Như vậy để thấy bi kịch mà nàng Kiều phải gánh chịu rất nặng nề. Nhiều thế kỉ đã trôi qua nhưng đoạn trích Trao duyên nói riêng và kiệt tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị, bởi khả năng miêu tả tâm lí nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao.
Xem thêm bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du
3. Phân tích 14 câu giữa bài đoạn trích Trao duyên:
Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong việc khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng của ông được thể hiện xuyên suốt Truyện Kiều, đặc biệt là ở đoạn Trao duyên, thể hiện tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi nàng mong Thúy Vân “kết nghĩa” với Kim Trọng. Và có thể thấy rõ hơn ở 14 câu giữa của bài là đoạn Kiều trao cho Vân trả nghĩa Kim Trọng
Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đẹp nhất khi nàng phải ra đi đột ngột vì Kiều đã bán mình cứu cha và em. Họ đã có một lời hẹn ước thiêng liêng và lãng mạn, nhưng trong hoàn cảnh gia đình thuở nhỏ, số phận đã chọn lòng hiếu thảo của nàng Kiều thay công sinh thành và giáo dục của cha mẹ.
Và Thúy Kiều đã trao tình yêu cho Thuý Vân mà lòng Thúy Kiều còn chất chứa bao cảm xúc. Sự trả lại của vật chất còn dễ hình dung và so đo, nhưng Thúy Kiều trao duyên sao có thể kết thành tình yêu như vậy?
Kỷ vật tình yêu như vòng tay, tờ giấy lời thề của cả hai , Thúy Kiều gửi cho Thúy Vân:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành – Tờ mây” đó là lời thề, là sự xác nhận tình yêu đôi lứa Kim Trọng – Thúy Kiều. Ở cái “bạch đầu răng long” của Kiều, Kiều trân trọng hai điều. Nhưng mất đi nghĩa là Kiều và Kim chẳng còn là gì, tình yêu tan vỡ không thể cứu vãn. Vì thế, mỗi kỉ niệm tài hoa cũng giống như mối tình cuối rời tay Kiều. Giọng nghe bình thường, như thể sau mỗi câu nói vẫn còn một tiếng nấc nghẹn ngào. Trao “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết thúc bằng hai từ “của chung”.
Tình yêu với ai là sự sống và tinh thần, nên không thể nói rằng sẽ từ bỏ. Nguyễn Du cuối cùng đã cho Kiều trở về với cô gái yếu đuối nằm trong vòng xoáy tâm lí thường tình, cái được mất càng quan trọng bao nhiêu thì cảm nhận về giá trị đích thực của nó càng mãnh liệt bấy nhiêu. Vì thế, “của chung” trong tiếng Kiều mang nhiều giằng xé, mâu thuẫn. Tưởng chừng như lý trí đã quyết định từ bỏ nhưng trái tim lại không thể nghe theo. Là một món quà lưu niệm nhưng vẫn níu giữ được tình cảm và kỷ niệm cho Kiều. “Sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch tuyệt vọng do chính nàng tạo ra khi nhìn trước ngó sau, vẫn vẹn nguyên như cũ, chỉ thiếu bóng mình.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Đâu phải khổ vì tương lai, nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, sự trọng nghĩa của Kim Trọng đã trả xong, Vân đã có hạnh phúc cho mình, Kiều cũng đã đền đáp được chứ hiếu cho cha mẹ. Nhưng Kiều vẫn chưa yên vì hạnh phúc trong đời Kiều là Kim đã thuộc về người khác. Đã không có chỗ cho Kiều trong tương lai. Kiều cô đơn, bơ vơ bên bờ hạnh phúc. Chẳng còn gì cho Kiều , cái thân “hồng nhan bạc mệnh” này chỉ còn chờ đợi “chút của tin” và nhớ nhung không quên ngày xưa. Bây giờ vẫn còn “một chút tin tức” nhưng đó chỉ là “thời xưa” gợi lại những kỷ niệm đã qua của Kiều, còn tương lai là của Vân. Từ xa “ngày xưa” vang lên chua xót gọi về một tình yêu mới đẹp như hôm qua giữa Kim – Kiều. Giờ đây, nhớ lại kỉ niệm tình yêu nồng ấm với “phím đàn với mảnh hương nguyền” dường như Kiều càng đau đớn hơn.
Kiều thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, nàng cảm thấy tương lai sống hay chết thì cũng chẳng mấy khác biệt:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Dù Thúy Kiều có”thịt nát xương mòn” mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng cũng đừng quên mình. Kiều cũng chỉ ra dấu hiệu của Thúy Vân để nhận biết mình khi trở về: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Một người nặng tình như Thúy Kiều sao có thể quên lời thề với chàng Kim nhanh chóng như vậy. Dù cho linh hồn có ở nơi vĩnh hằng thì vẫn “mang nặng lời thề”. Đó là lời thề suốt đời chung thuỷ với nhau với Kim Trọng. Kiều khắc ghi lời thề trung thành này trong tim cho đến cuối đời. Thế giới âm phủ và thế giới trần gian đều “cách mặt khuất lời” nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân cho “rưới xin giọt nước” cho oan hồn của mình. Thúy Kiều còn sống nhưng tâm hồn hướng về cái chết – cái chết oan uổng của một kẻ bạc mệnh.
Qua đây ta thấy hậu quả, khi xã hội xưa hành hạ con người đến tận cùng, cướp đi quyền được yêu và quyền hạnh phúc, khiến một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại nghĩ đến cái chết. Kiều chiến đấu một cách tuyệt vọng, muốn biết tại sao Kiều phải hy sinh bản thân, đầu hàng số phận, chịu đựng cuộc đấu tranh không vì lỗi của ai. Kiều không thể chia sẻ nỗi bất đắc dĩ này với bất kỳ ai, sẽ không ai hiểu nên vẫn đi vào ngõ cụt.
Và nhà văn nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy nỗi khốn cùng ấy của con người trong xã hội cũ và để cho sự tự nhận thức về cuộc đời, về số phận, về phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ một cách rõ nét và kịch tính như vậy. Nhà thơ bày tỏ sự bảo vệ của mình trước nhu cầu hạnh phúc cơ bản của con người.