1. Dàn ý Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai:
1.1. Dàn ý Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai – Mẫu 1:
a. Mở bài
– Trong kho tàng những bài ca dao dân ca của văn học Việt Nam, chủ đề về tình yêu đôi lứa vẫn luôn là chủ đề được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ xưa được tái hiện lại là những con người phải chịu nhiều tủi cực nhưng luôn khao khát hạnh phúc là hình ảnh rất quen thuộc.
– Bài ca dao Khăn thương nhớ ai là một bào ca dao đặc sắc nói về tình cảm lứa đôi, là lời ca thay cho nỗi niềm của người con gái.
b. Thân bài
– Nêu khái quát nội dung của bài ca dao:
+ Nỗi nhớ nhung của người con gái mong ngóng, chờ đợi người con trai
+ Nỗi nhớ nâng lên càng ngày càng da diết, từ nỗi lòng thầm kín không bộc lộ trở thành tiếng khóc chan chứa
– Hình ảnh chiếc khăn:
+ Chiếc khăn là một hình ảnh quen thuộc thường xuyên xuất hiện trong ca dao xưa, gắn liền với hình ảnh người phụ nữ và là biểu tượng cho số phận người phụ nữ xưa
+ Chiếc khăn trong bài ca dao là vật trao duyên, là kỉ niệm hứa hẹn, biểu tượng cho tình yêu của đôi trai gái
-> Câu thơ mượn hình ảnh chiếc khăn biểu tượng cho số phận người phụ nữ xưa, nhân hóa trở thành vật có tri giác biết nhớ, biết mong để nói về nỗi nhớ mong của người con gái với người yêu mình đến thấp thỏm đứng ngồi không yên
– Hình ảnh cây đèn:
+ Ánh đèn không tắt.
+ Mắt không ngủ.
-> Thể hiện nỗi nhớ trong lòng đong đầy, không những đứng ngồi không yên mà thậm chí nhớ mong ngày đêm không nguôi cũng không thể nào ngủ được, luôn lo lắng cho người mình yêu.
– Hai câu thơ cuối:
+ Sự bùng phát của nỗi nhớ, sự lo lắng không yên không biết rằng liệu tình yêu của họ có đến được với nhau, có được hưởng một hạnh phúc trọn vẹn hay không.
c. Kết bài
– Tình yêu mãnh liệt của người phụ nữ, lòng chung thủy son sắc đối với tình yêu ấy và người thương.
–
1.2. Dàn ý Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai – Mẫu 2:
a. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu bài ca dao: Nước Việt Nam ta có một nền văn học với kho tàng đồ sộ về ca dao, dân ca truyền tải những ý nghĩa tốt đẹp được lưu truyền từ bao đời nay. Những lời dạy được truyền từ thời cha ông có thể là tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm vợ chồng thiêng liêng, tình cảm nam nữ yêu nhau. Trong đó, có bài da cao “Khăn thương nhớ ai” là một trong các bài ca dao đặc sắc, thể hiện tình yêu mãnh liệt của một người con gái, và sự mong ngóng chờ đợi chàng trai của mình.
b. Thân bài
– Khái quát nội dung của bài thơ:
+ Nổi niềm nớ nhung da diết, ngày ngày trông ngóng, chờ đợi của một người con gái với chàng trai mình yêu.
– Hình chiếc khăn
+ Chiếc khăn là một hình ảnh quen thuộc thường xuyên xuất hiện trong ca dao xưa, gắn liền với hình ảnh người phụ nữ và là biểu tượng cho số phận người phụ nữ xưa
+ Chiếc khăn trong bài thơ là vật trao duyên, là kỉ niệm hứa hẹn của đôi trai gái, là biểu tượng cho tình yêu của họ
-> Mượn hình ảnh cái khăn quen thuộc, nhân hóa nó thành vật có tri giác biết nhớ, biết mong với những hành động “thương nhớ”, “rơi xuống”, “vắt lên”, “chùi nước mắt” mang cảm xúc của con người đã làm hiện lên hình ảnh người con gái với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi lo âu.
+ Người con gái nhớ người yêu đến ngơ ngẩn, khăn rơi xuống đất rồi lại vắt lên vai rồi lại ngậm ngùi chùi nước mắt, thấp thỏm đứng ngồi không yên.
– Hình ảnh cây đèn:
+ Ánh đèn vẫn không tắt giữa đêm khuya vò võ canh tàn, đốm lửa còn đang cháy phập phùng phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi không chịu tắt như nỗi nhớ của cô gái vẫn cứ da diết khôn nguôi.
+ Mắt không ngủ, tạo nên một đối xứng rất đẹp với “đèn không tắt” ở trên, gợi lên một cảnh tượng rất thực: cô gái giữa đêm khuya một mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì “mắt ngủ không yên” nên “đèn không tắt”. Nói đèn cũng chỉ là để nói người thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi khôn nguôi.
+ Thể hiện nỗi nhớ càng đong đầy không chỉ đứng ngồi không yên mà thậm chí mắt cũng không nhắm, không thể nào ngủ được, luôn lo lắng cho người mình yêu.
+ Nhớ mong ngày đêm không nguôi
– Hai câu thơ cuối
+ Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giãi bày niềm lo âu của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi.
+ Chữ “lo” được nhắc đến hai lần thể hiện nỗi nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.
c. Kết bài
Nêu cảm nghĩ về tình cảm của người con gái trong bài ca dao: Bài ca dao với những nét nghệ thuật tiêu biểu của ca dao Việt Nam như sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa ấn tượng, sử dụng cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng… đã thể hiện rõ nét nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài thơ, được người dân xưa bày tỏ qua tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương.
2. Bài phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai:
2.1. Bài phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai chọn lọc:
Bài ca Khănthương nhớ ai nằm trong kho tàng ca dao Việt Nam về đề tài tình yêu thương nhớ, một cung bậc của người bình dân Việt Nam. Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức không dễ bộc lộ của một cô gái. Cô phải hỏi những vật dụn quanh mình như khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi không có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hanh phúc:
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề.
Chiếc khăn quen thuộc là hình ảnh được xuất hiện đầu tiên, được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất trong 6 câu thơ:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Cái khăn đươc nhắc lại nhiều như vậy bởi thời xưa khăn thường là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người yêu (Gửi khăn, gửi áo, gửi lời – Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa). Khăn được xuát hiện liên tục trong 6 câu thơ đầu như một điệp khúc bất tận, dường như mỗi lần hỏi là mọt lần nỗi nhớ trong cô gái lại thêm trào dâng, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Cái khăn quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của con người nhưng tự nó không thể biết “thương nhớ”, không tự biết “rơi xuống” hay “vắt lên”, không biết “chùi nước mắt”, nhưng những câu thơ đã mượn hình ảnh chiếc khăn là biểu tượng cho vật trao duyên của đôi lứa, sử dụng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người để làm hiện lên tâm trạng ngổn ngang vừa thương nhớ vừa lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, tâm trạng như chiếc khăn rơi xuống đất lại vắt lên vai rồi cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm “khăn chùi nước mắt”.
Nõi nhớ ấy không chỉ ngổn ngang ở hành động, nó kéo dài từ ban ngày đến ban đêm với hình ảnh:
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Nỗi niềm thương nhớ lúc này đã được chuyển từ “khăn” của ban ngày sang “đèn” của ban đêm. Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya vò võ canh tàn, với ánh sáng lập lèo của đốm lửa vẫn cháy dập dìu giống như trái tim cô gái cũng đang rao rực cháy. Ngọn đèn mãi không chịu tắt, chính là nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.
Nhưng nối lòng ấy ngày đên đêm cứ ngày càng lớn hơn, khăn hay đèn đều không thể thổ lộ được hết nỗi lòng ấy, cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp:
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm nằm lưng chẳng tới giường.
Trông cho mau sáng ra đường gặp anh.
Thương nhớ đến mức trằn trọc thao thức, không thể nào ngủ được. “Mắt ngủ không yên” với sức gợi cảm sâu xa đối xứng rất đẹp với “đèn không tắt”. Cô gái một mình giữa đêm với trái tim thao thức, đối diện với ngọn đèn cô đơn, đèn soi chiếc vào đôi mắt chất chứa đầy nhớ thương vời vợi, hay vì mắt ngủ không yêu mà đèn không thể tắt.
Với mười câu thơ nhưng đó cũng chính là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc “thương nhớ ai” trong mỗi câu hỏi trở đi trở lại như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết, gợi lên một nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, không giới hạn. Từ “ai” là đi liền đó không xác định chính xác là người nào nhưng người đọc, người nghe đều hiểu được “ai” ấy là ai. Câu hỏi không có trả lời, nhưng thực ra câu trả lời ai cũng biết, cô gái cũng biết, được thể hiện trong chính như câu thơ da diết kia. Không cần nói rõ tình cảm thương như thế nào, nhớ như thế nào, nhưng nỗi nhớ người yêu vẫn được bộc lộ một cách vừa sâu sắc, vừa kín đáo, mãnh liệt mà tinh tế.
Cách gieo vần rất đặc sắc của bài ca khi vần chân và vần lưng được xen kẽ nhau, vần bằng và vần trắc được luân phiên nhau, sự giao vần ấy tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn xuyên suốt khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa như kéo dài ra mênh mông, vừa như được nén chặt lại không thể bày tỏ. Những nỗi niềm nhớ nhưng ấy đến điểm dừng khi cô gái không còn hỏi nữa, niềm thương nhớ ấy giờ trào ra thành nỗi lo phiền.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp những câu hỏi không có câu trả lời, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát, nhẹ nhàng hơn, giãi bày niềm lo âu xao xuyến của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Cô gái nhớ thương người yêu đồng thời cũng lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, đây là tâm trạng không chỉ với mỗi cô gái mà nó phổ biến ở những người phụ nữ trong cuộc đời xưa: dù yêu tha thiết nhưng vẫn luôn lo sợ hạnh phúc bấp bênh.
Bài ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng… là những nét nghệ thuật khá tiêu biểu của ca dao, dân ca. Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của người bình dân xưa.
2.2. Bài phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai ngắn gọn:
Bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” là nỗi nhớ khắc khoải, da diết của cô gái đối với người yêu mình như một khúc nhạc da diết trầm bổng réo rắt đến nao lòng. Nỗi nhớ ấy được cất lên những câu hỏi dồn dập, rồi lại bị nén chặt trong lòng không thể bày tỏ, đến cuối cùng lại trào ra mênh mông, mãnh liệt.
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…”
Nỗi nhớ thương khắc khoải, da diết trong tình yêu của người con gái được bộc lộ gián tiếp qua những hình ảnh tượng trưng gắn liền với cuộc sống đời thường qua biện pháp nhân hóa, ẩn dụ,
Mỗi câu thơ với “khăn” được lặp lại trong câu hỏi “khăn thương nhớ ai” khiến cho câu ca dao vang lên như nỗi nhớ thương triền miên, dằng dặc và khôn nguôi. Chiếc khăn thực chất là một vật vô tri, không thể làm nên câu chuyện về tình thương nỗi nhớ, không thể tự mình “rơi xuống đất” rồi “lại vắt lên vai” hay không thể tự mình “lau nước mắt”. Chiếc khăn gắn liền với cuộc sống của cô gái như chứng nhân của tình yêu thay người nói hộ nỗi lòng của cô, an ủi động viên người đang yêu. Những hành đông trên là một chuỗi hành động tự nhiên trong vô thức của một người con gái đang ngổn ngang những tâm trạng trong lòng mà không thể giải thoát, cuối cùng đến mức phải “rơi nước mắt”.
Nỗi niềm ấy được lan toả khắp không gian rồi lại được kéo dài từ ngày sang đêm. Nỗi nhớ được gửi vào khăn rồi giờ gửi vào “ngọn đèn”. Ngọn đèn gắn với khoảng không khi đêm đến đầy ưu tư, sầu muộn. Trong không gian vò võ của đêm khuya, khi ngọn đèn cháy sáng thì nỗi nhớ trong lòng cô gái trẻ cũng cháy rực như ánh lửa đang lập lèo. Chừng nào ngọn lửa của tình yêu còn cháy , thương nhớ còn chưa tắt thì ngọn đèn cũng chưa tắt. Thương nhớ vẫn đấy, đèn sáng vẫn đấy và người cũng trằn trọc không thể ngử giữa đêm khuya: “Mắt ngủ không yên”. Nỗi nhớ trong tiềm thức khôn nguôi. Hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt thương nhớ ai, mà đều không có câu trả lời, bởi đó là hỏi chính bản thân cô gái, hình ảnh của ai đó xoáy sâu trong lòng mình, mãnh liệt không dứt, “ai” mà ai cũng biết là ai.
Hai câu cuối từ thơ bốn chữ dồn dập những câu hỏi chuyển sang thơ lục bát khá tự nhiên, phù hợp tháo gỡ những dằn vặt, dồn nén của cô gái thành lo vì một nỗi không yên một bề. Nỗi lo ấy mãi ám ảnh không chỉ cô gái trong thơ mà còn là nỗi lo chúng của những người phụ nữ, dù yêu mãnh liệt vẫn luôn lo lắng cho cuộc sống hạnh phúc của mình, có lo âu thì mới xây dựng được tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc.
Bài ca dao thể hiện tình yêu mãnh liệt của một người con gái, và sự mong ngóng chờ đợi chàng trai của mình. Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của người bình dân xưa.
2.3. Bài phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai:
Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Tình cảm này là một đề tài được thể hiện rất nhiều trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.
Tác giả dân gian đã mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn chính là những hình ảnh thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân xưa, những hình ảnh này đã được nhân hoá trong câu thơ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình, biến thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.
Cái khăn đươc nhắc lại nhiều như vậy bởi thời xưa khăn thường là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người yêu (Gửi khăn, gửi áo, gửi lời – Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa). Khăn được xuát hiện liên tục trong 6 câu thơ đầu như một điệp khúc bất tận, dường như mỗi lần hỏi là mọt lần nỗi nhớ trong cô gái lại thêm trào dâng, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.
Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: “Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt”. Chừng nào ngọn lửa của tình yêu còn cháy, thương nhớ còn chưa tắt thì ngọn đèn cũng chưa tắt. Cuối cùng, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái hỏi chính đôi mất của mình: “Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên”. Nỗi nhớ thương nặng trĩu khiến cho cô gái “Đêm nằm lưng chẳng tới giường”. Hình ảnh người thương đã khắc sâu trong tâm trí cô, nhằm mắt vào hình ảnh đó lại hiện ra càng rõ ràng, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây mắt ngủ không yên.
Dù bộc lộ kín đáo đến đâu thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự mọt cách gián tiếp. Đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp sau hoàng hoạt điệp khúc “thương nhớ ai” vang mãi không dứt. Cuối cùng nỗi niềm khắc khoải đó cũng phải trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Tình yêu lứa đôi dù trong sáng, bay bổng hay mãnh liệt, lãng mạn tới đâu chăng nữa cũng không thể thoát khỏi hiện thực của cuộc sống đời thường. Bởi thế mà cô gái rất nhớ người yêu nhưng cũng chính là lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Thực tế và cũng đã được thể hiện trong nhiều bài ca dao nói về hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ xưa thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân. Bài ca dao là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương, khao khát một cuộc sống hạnh phúc… Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa.