1. Dàn ý phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh:
1.1. Ba câu đầu:
Đây là ba câu tự sự về hành vi thường thấy của ba viên quan cai quản nhà tù Lai Tân.
a. Bác Hồ hình như không bình luận gì ở đây mà chỉ miêu tả sự việc. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ, bạn sẽ thấy ý nghĩa của bài thơ này rất sâu sắc. Bác Hồ tập trung phê phán chủ yếu vào ba vấn đề: Người cầm quyền và trực tiếp quản lý trật tự an ninh địa phương, ba đối tượng từ thấp đến cao. Họ là những người có trách nhiệm thực thi pháp luật và là những quan chức “gương mẫu” nhất trong việc vi phạm Pháp luật.
b. Bạn trưởng đánh bạc hàng ngày, và cảnh trưởng công khai nhận hối lộ từ tù nhân một cách trắng trợn. Huyện trưởng “chong đèn làm công việc” nhưng thực chất là “đốt đèn để hút thuốc phiện”. Điều này là sự thật ở các huyện đường Quảng Tây dưới thời Tưởng Giới Thạch.
1.2. Câu cuối cùng:
Một Kết luận, một đánh giá thực trạng hệ thống cai trị nhà tù.
a. Người đọc mong đợi những lời lên án gay gắt và hùng hồn. Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh lại không làm như vậy mà lại thốt ra những lời có vẻ thờ ơ, lạnh lùng: “Trời đất ở Lai Tân vẫn thái yên”. Nhưng những cuộc đả kích bất ngờ và thâm thúy lại cũng chính ở chỗ này. Tình trạng tham nhũng thối nát vô trách nhiệm của bọn quan lại Lai Tân là chuyện hết sức bình thường và là một phần bản chất của bộ máy cái trị trị ở đây.
b. Câu cuối cùng, nhất là từ “thái bình”, dường như ẩn chứa một sự “cười khẩy” đầy mỉa mai nhằm vạch trần bản chất tham nhũng của toàn bộ bộ máy cai trị Lai Tân. Nhà phê bình Hoàng Trung Thông đã nhận xét “ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, còn cái trời đất Lai tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở”.
2. Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh chọn lọc:
Bài thơ Lai Tân là những ghi chép lại những gì Bác Hồ đã thấy và đã nghe khi bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Những mô tả chân thực về các nhà tù và một phần của xã hội Trung Quốc được biên soạn thành bốn câu thơ bảy chữ kèm theo thái độ.
Thành công của tác phẩm Lai Tân nằm ở nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu trần thuật xen lẫn chất trữ tình và kết cấu chắc chắn, chặt chẽ. Bài thơ Lai Tân gồm hai phần, có hai cách cấu tứ khá bất ngờ. Như đã đề cập ở trên, ba câu đầu tiên mang tính chất tường thuật thuần túy. Điểm mấu chốt là câu thứ tư. Nó làm bạt ra ý tổng thể tư tưởng của bài viết. Nó làm bùng nổ tất cả hàm ý châm biếm mỉa mai chỉ ra sự tham nhũng sâu sắc trong xã hội Tưởng Giới Thạch.
Ba câu đầu mô tả chính xác, khách quan, sâu sắc và có sức công phá không hề nhỏ sự hỗn loạn, bát nháo của xã hội Tưởng Giới Thạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẽ lên ba bộ mặt thật rất sống động. Lão giám ngục (ban trưởng nhà lao) ngày này qua ngày khác đánh bạc, cảnh sát trưởng thì nhận tiền hối lộ từ túi tù nhân, và viên quan huyện thì chong đèn hút thuốc phiện.
Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh giặc, nhưng cái trời đất Lai Tân muôn thuở vẫn như vậy không thay đổi. Ba nhân vật hoạt động một cách ráo riết chẳng khác gì bộ hài kịch câm vậy. Cả ba đều nhập vai một cách nghiêm túc và vô thức dưới bầu trời “thái bình” của Lai Tân đang bị thu hẹp dưới bàn tay của Tường gia.
Câu thơ cuối mang tính chất mỉa mai và châm biếm rất sắc nét. Từ “thái bình” thâu tóm lại vô số những việc làm vẫn là một câu chuyện muôn thưở về xã hội Trung Quốc do giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một lời này thôi cũng có thể xé nát cái “thái bình” giả tạo, nhưng thực tế lại là một “sự hỗn loạn lớn” trong xã hội.
Ba câu đầu chỉ là những câu trần thuật, hình ảnh không có gì đặc biệt nhưng mỗi nhân vật lại có một công việc khác nhau và đặc biệt giống nhau về mặt tham nhũng, thối nát, nhất là ở cái hoàn cảnh”quốc gia hữu sự”. “tình hình hiện tại”. Với câu nói đó (mà nghệ thuật thơ Đường gọi là “cảnh cú”), một câu thơ cất lên có thể làm rung chuyển các câu thơ khác. Bài thơ vốn phẳng lặng bỗng trở nên ngân vang, bỗng giục giã, gây ra một loạt những cảm xúc đặc biệt.
Bài thơ này còn đậm nét thể hiện bút pháp chấm phá của thơ Đường. Bài thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kỳ về ngôn từ nhưng có thể nói rằng chỉ trong bốn câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ đã khắc họa chi tiết và chân thực cho bản chất của cả một hệ thống xã hội thối nát. Sức chiến đấu, có chất “thép” nhẹ nhàng nhưng quyết liệt của thơ là ở đó. Câu thơ cuối bài tưởng chừng như thờ ơ và vô cảm này ẩn chứa sự giễu cợt, tiếng cười mỉa mai, đã bộc lộ bản chất của toàn bộ bộ máy nhà nước Lai Tân.
3. Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh hay:
Một trong những nội dung của tập thơ Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, là ghi lại điều tai nghe mắt thấy hằng ngày của tác giả trong tù và trên đường chuyển lao, tạo cho bài thơ của Người tính hướng ngoại, cùng yếu tố tự sự, tả thực. Do đó, tác phẩm đã mô tả rất chi tiết mặt tối của các nhà tù Quốc dân Đảng Trung Quốc, giống như một bộ phim tài liệu mang tính phê phán cao. Tập thơ này cũng cung cấp một cái nhìn thoáng qua về tình hình xã hội ở Trung Quốc vào những năm 1940. Bài thơ “Lai Tân” là một trong những tập thơ có nội dung hiện thực như vậy.
Lai Tân là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đi qua trên đường từ Thiên Giang, tỉnh Quảng Tây đến Liễu Châu. Bài thơ mang tên nơi này là bài thơ thứ 97 trong tổng số 134 tuyển tập nhật ký trong tù. Nó cho thấy tình trạng đen tối và thối nát của một xã hội được cho là hòa bình và tốt đẹp.
Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đường Luật thường có bốn phần. Mỗi phần có những câu có chức năng nhất định trong việc kết cấu và thể hiện ý nghĩa của bài thơ.
Bài thơ Lai Tân có kết cấu rất đặc biệt dù là thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường Luật. Tính độc đáo và đặc biệt này xuất phát từ ý định châm biếm của tác giả và thể hiện tài năng cấu trúc nên một bài thơ châm biếm từ một thể thơ mang tính trang trọng và chặt chẽ.
Bài thơ được chia làm hai phần thay vì bốn phần như thể thơ Đường Luật. Phần đầu gồm ba câu đầu viết theo lối tự sự. Phần 2 chỉ có một câu cuối mang tính biểu cảm. Ba câu đầu kể về việc ban trưởng ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng giải tù nhân và bóc lột họ như thế nào, và huyện trưởng đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện. Câu cuối biểu cảm là thái độ của nhà thơ đối với hiện thực được chứng kiến.
Về mặt cấu trúc, hai phần nêu trên có mối liên hệ rất chặt chẽ và vững chắc với nhau. Nếu chỉ có một phần, cấu trúc sẽ bị phá vỡ và bài thơ trở nên kém ý nghĩa. Đặc biệt khi mất câu cuối thì mất đi ý nghĩa châm biếm, đả kích dù ba câu đầu thể hiện sự phê phán. Sự kết nối chặt chẽ của kết cấu cho thấy sự mâu thuẫn giữa sự bất an và thái bình, gây ra nụ cười chua cay, đau xót trước thực tế đau lòng.
Bài thơ này được viết vào thời điểm Trung Quốc đang bị phát xít Nhật xâm lược và nhân dân Trung Quốc đang rên rỉ dưới ách thống trị của ngoại bang và cố thủ trong bộ máy quan liêu của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ba dòng đầu của bài thơ miêu tả hiện thực của nhà tù. Đây là công việc thường ngày của ba vị quan đại diện cho bộ máy chính quyền của Lai Tân. Ban trưởng nhà tù ngày ngày đánh bạc, cảnh sát trưởng moi tiền tù nhân, huyện trưởng năng đến mức ban đêm phải chong đèn để hút thuốc phiện. Khi đọc câu này, bạn có thể nghĩ rằng huyện trưởng siêng năng làm việc ban đêm, nhưng nếu nghĩ về công việc trong bối cảnh chung của Ban trưởng hoặc Cảnh trưởng, rõ ràng huyện trưởng đang làm một công việc mờ ám, bất thường. Cảnh tượng này hoàn toàn bất thường đối với một bộ máy quan liêu nghiêm chính. Câu cuối cùng của bài thơ tạo nên một nghịch lý. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Không có gì bất thường ở bài thơ này, bộ máy cai trị Lai Tân vẫn luôn được phán một cách rành mạch. Ban trưởng đánh bạc, Cảnh trưởng nhận hối lộ, huyện trưởng hút thuốc phiện. Toàn bộ hệ thống đều là sự yên ổn và thái bình.
Sự tham nhũng trong các bộ máy chính quyền nghiêm trọng đến mức những hành vi xấu và vô kỷ luật đã trở nên phổ biến, thậm chí là chuẩn mực. Đây là cuộc sống yên bình của Lai Tân.
Bộ mặt của quan lại nhà tù Lai Tân được chủ tịch Hồ Chí Minh miêu tả trọn vẹn và rõ ràng chỉ trong bốn câu thơ. Bài thơ cũng phê phán tình trạng tham nhũng tràn lan trong giới quan chức và xã hội Trung Quốc dưới sự thống trị của Quốc Dân Đảng. Nghệ thuật châm biếm của bài thơ này nảy sinh từ hai yếu tố cơ bản: mâu thuẫn và giọng điệu.
Một trong những thủ thuật tạo ra tiếng cười trong nghệ thuật châm biếm là khai thác những mâu thuẫn phi tự nhiên. Ở đây cấu trúc của bài thơ tạo ra sự mâu thuẫn. Ba câu đầu nói lên điều gì đó khác thường so với lẽ thường. Với ba câu này, lẽ ra tác giả phải kết luận bằng một câu làm sáng tỏ tình hình xã hội nhưng ngược lại, tác giả lại kết luận rằng thế giới Lai Tân vẫn còn thái bình và cái bất thường đã trở thành cái bình thường.
Để tiếng cười mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, độc đáo hơn, tác giả giới thiệu ba hình ảnh (ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng) liên quan đến ba hiện tượng (cờ bạc, hối lộ, hút thuốc phiện). Hơn nữa, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa mọi thứ đến mức độ phổ quát và tổng quát bằng cách lặp lại các từ ngày ngày, đêm đêm, y nguyên như cũ. Rõ ràng xã hội Lai Tân đang rối loạn. Thật bất ngờ, tác giả lại kết luận rằng xã hội Lai Tân đang thái bình. Người đọc cười, nhưng đó là tiếng cười cay đắng vì sự thật bị bóp méo một cách trắng trợn và lẽ thường bị chà đạp một cách tàn nhẫn.
Giọng điệu của bài thơ là giọng điệu của tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ không bao giờ tạo ra tiếng cười dễ dãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chắc hẳn đã vô cùng đau buồn khi chứng kiến cảnh tượng như vậy. Vậy tại sao tác giả lại có giọng điệu điềm tĩnh thay vì giọng điệu gay gắt, giận dữ? Hơn nữa, do lối viết hiện thực, vì đây là hiện thực trào phúng nên tác giả giữ thái độ khách quan để đạt được giá trị phản ánh tối đa. Sự điềm tĩnh của chủ tịch Hồ Chí Minh tạo ấn tượng rằng Bác không hề chỉ trích hay châm biếm bất cứ điều gì. Tuy nhiên, bằng giọng văn đầy chất thơ này, tác giả đã tạo nên một đòn tấn công mạnh mẽ và quyết liệt. Đây là nét đặc trưng của phong cách Hồ Chí Minh.