Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc siêu hay

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc siêu hay
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc siêu hay tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc siêu hay:

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên đã trở thành hiện tượng ngay từ khi mới xuất hiện và được đông đảo độc giả yêu thích. Nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều người và được lưu truyền qua nhiều năm.

Bài thơ “Nhớ” có 62 câu, câu dài nhất có 10 chữ. Tác phẩm được chia thành ba khổ thơ với ba yếu tố cảm xúc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy bài thơ này đã lựa chọn hình thức thể hiện riêng ngay từ đầu. Đây là hình ảnh vệ quốc đoàn trong những năm  kháng chiến. Có bao nhiêu người, và họ là ai? Thông tin này đã được nhà thơ giới thiệu ngay ở những khổ thơ đầu.

Họ tự giới thiệu mình như thế này. Mặc dù con số chính xác chưa được công bố nhưng đó là một con số đáng kể. Và trình độ văn hóa cũng rất thấp, trình độ quân sự cũng không cao. Nhưng điều khiến họ trở nên đặc biệt là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và sự lạc quan để cười ngay cả khi đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh.

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ,

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “Một hai”

Súng bắn chưa quen,

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Lột sắt đường tàu,

Rèn thêm đao kiếm,

Áo vải chân không,

Đi lùng giặc đánh.

Ba năm rồi gửi lại quê hương.’

Nhà thơ đã thể hiện trong những lời thơ hài hước của mình những người bạn đồng hành tốt bụng và chân thành biết bao. Những người lính này từ luống cày bước ra. Hình ảnh này  giống với hình ảnh những người lính trong bài thơ của Chính Hữu. Họ đến từ những vùng nghèo, nước mặn, ruộng chua, cày xới đất đá để đáp lại tiếng gọi quê hương. Những người lính này có tình cảm sâu sắc về đấu tranh giải phóng dân tộc.

Điều đọng lại trong lòng mỗi người trong cuộc tuần hành này là niềm khao khát quê hương sâu sắc và nồng nàn. Và cũng có thể nói, tình yêu quê hương vọng trở về trong nỗi nhớ. Chỉ qua một vài lời thơ đơn giản đã có thể khơi lại nỗi nhớ đó, và nỗi nhơ ấy rất mạnh mẽ. Đó là nỗi nhớ của một người vợ trẻ đầy yêu thương và hoài niệm.

‘Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa

– Đằng nớ vợ chưa?

– Đằng nớ?

– Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…’

Cuộc hành quân tuy gian nan, vất vả nhưng cũng có những giây phút phấn khởi vì những giây phút tựa như trong mơ. Đó là hình ảnh những người phụ nữ ở một ngôi làng bên rìa cánh đồng dâu, là câu chuyện kể về vợ con người lính cùng nhau vui vẻ, cười đùa.

Trong bài thơ ‘Nhớ’ của Hồng Nguyên, nỗi nhớ quê hương này còn được thể hiện ở một mức độ cao hơn là nỗi nhớ, tình yêu con người, quê hương. Tầm nhìn rộng hơn, tràn đầy  lạc quan và yêu đời hơn. Nhiều cảnh đời thường nối tiếp nhau diễn ra, giống như những cảnh phim rộng. Và ở đoạn thơ này, tác giả đã thành công trong việc khắc họa những điều đó nhờ lối thơ thanh thoát, nhẹ nhàng…

‘Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…

..

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!’

Và tình yêu này giữa con người với nhau thật nồng nàn và thân thiết. Biết bao kỷ niệm về làng quê, con người, tấm lòng vùng đất lạ đã khắc sâu vào tâm hồn người lính. Và những ký ức này vẫn không phai mờ dù bao nhiêu năm có trôi qua, và chúng ta cũng có thể cảm nhận được điều đó.

Nhưng sau khoảng thời gian khó khăn như vậy, họ lại một lần nữa bắt tay vào thực hiện một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Nó giống như sức nặng của vũ khí trên vai người lính. Điều này thể hiện hình ảnh người chiến sĩ có ý chí kiên cường, bất khuất. Đây cũng là giá trị của bài thơ “Nhớ” của nhà thơ Hồng Nguyên.

2. Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc đặc sắc:

Cuộc kháng chiến thần kỳ của nhân dân ta chống thực dân Pháp  không chỉ là một cột mốc vẻ vang trong lịch sử Việt Nam mà còn là một cột mốc đáng nhớ của văn học nước nhà. Bởi vì lần đầu tiên trong thơ Việt Nam xuất hiện một nhân vật anh hùng dân tộc mới. Đây chính là những ảnh bộ đội Hồ – anh bộ đội đã trải qua bao gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Khi gọi tên anh, chúng ta sẽ không bao giờ quên bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, một bài thơ thể hiện định nghĩa đầy đủ nhất về người lính và tình đồng đội cao cả. Nhưng chúng ta cũng luôn nhớ đến các anh với một  chân dung mới lạ qua bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên.

Câu mở đầu độc đáo của bài thơ ngay từ cách các anh tự giới thiệu về mình.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi 1,2

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Những hình ảnh thơ được lặp đi lặp lại tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc về những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dù những ngày đầu đầy khó khăn nhưng trong lòng các anh bộ đội vẫn tràn ngập niềm vui và niềm tin vào cuộc sống.

Bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, các anh luôn có niềm tin yêu lớn lao trong lòng nên vẫn kiên định, chủ động tìm kẻ thù mà đánh trận. Những vần thơ ấy thật khỏe khoắn và đầy sức mạnh làm sao:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Tất cả chúng ta đều ngạc nhiên và xúc động khi đọc đến những câu thơ này. Bởi không nơi nào trên thế giới những người lính, những người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại sở hữu vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như vậy. Nhưng đây là hiện thực. Đó là một hiện thực nguyên sơ, không được tô điểm một cánh hoa mỹ hay che đậy của cuộc kháng chiến trường kỳ lâu dài. Chính vì vậy hình ảnh những người lính trong bộ đồ áo vải chân không sẽ mãi mãi là một hình ảnh đẹp không bao giờ lặp lại trong lịch sử đất nước này.

Những người lính trong bài thơ khiến chúng ta không chỉ ngưỡng mộ mà còn yêu mến các anh vì ân tình của các anh đối với quê hương.

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Là người nông dân mặc áo lính, dù có cách xa quê hương hàng ngàn cây số, dù có ra đi vì một mục đích cao đẹp thì tình quê vẫn in sâu trong trái tim các anh. Lời thơ “Mòn chân bên cối gạo canh khuya” chứa đựng tình nghĩa sâu nặng đối với người vợ trẻ. Tình yêu này giống như một sợi chỉ mỏng manh vô hình nhưng nó đi cùng suốt cuộc đời chiến đấu của các anh và không bao giờ đứt đoạn.

Đi theo dòng ký ức và nỗi nhớ trong bài thơ, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của những người lính có nhiều nét tươi đẹp. Cùng với những người bạn cùng thôn xóm, các anh đã phải chịu đựng những tháng ngày hành quân gian khổ, nơi nắng mưa làm sờn mép ba lô. Sức mạnh nào đã tạo nên điều kỳ diệu này? Đó chính là tình đồng chí đồng đội. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn bởi những cảm xúc sâu lắng được thể hiện một cách tinh nghịch và hài hước.

– Đằng nớ vợ chưa

– Đằng nớ

– Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu

Hình ảnh lãng mạn đó, tiếng cười vui vẻ, lạc quan đó vẫn còn vang vọng đâu đó cho đến hôm nay, như để nhắc nhở chúng ta về một thời gian khó khăn nhưng vô cùng hào hùng của đất nước.

Câu “Tôi nhớ, chúng tôi đi” xuất hiện nhiều lần trong bài thơ. Phải chăng cuộc đời lưu động có phải là cuộc đời anh đã chọn? Mỗi bờ tre, từng mái tranh, từng đêm khuya giường kê cách cửa, bếp lửa đốt khoai, thậm chí cả những đám chặng đường hành quân tưởng chừng như vô tận… đã trở thành máu thịt. Tất cả những kỷ niệm ấy gặp nhau trong một tình yêu giản dị nhưng cảm động giữa con người và đất nước.

Chúng tôi đi nhớ nhất câu nì

Dân chúng cầm tay lắc lắc

Độc lập nhớ rẽ viền với chắc

“Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau” Lời dặn dò đơn giản, mang đậm chất quê hương này từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ người yêu thơ. Bởi bài thơ thể hiện niềm tin vào chiến thắng và khát vọng hoà bình của toàn dân qua những vần thơ vô cùng giản dị.

Bài thơ đã kết thúc nhưng hình ảnh những người lính trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp với những nét đặc sắc khó quên làm nổi bật phẩm chất cao quý của bộ đội Cụ Hồ vẫn còn mãi trong tấm lòng mỗi chúng ta.

3. Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên chọn lọc siêu ấn tượng:

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “một, hai”

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến…’

Bài thơ này gợi lại không khí những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi đồng bào cùng lứa tuổi ở các vùng miền đều hăng hái nhập ngũ. Họ là những người sống thật thà, khiêm tốn, luôn hào hứng với niềm vui của tuổi trẻ, cuộc sống mới.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính chiếm một vị trí quan trọng trong thơ ca. Ở họ kết hợp nhiều nét đẹp của quần chúng cách mạng. Văn học thời kỳ này tập trung vào người chiến sĩ, người lính.. Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên đã đoạt giải nhất tại cuộc họp Ủy ban Nghệ thuật Lam Sơn tổ chức tại Thanh Hóa năm 1948.

Bài thơ này khắc họa sinh động những người lính trong những ngày đầu thành lập quân đội, những người dù vượt qua bao năm tháng gian khổ vẫn có tinh thần chiến đấu kiên cường. Khi các nhà thơ viết về người lính, họ thường tìm thấy tiếng nói gần gũi nhất với người lính. Trong bài thơ “Nhớ”, Hồng Nguyên để người lính kể về mình như sau.

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ.’

Lúc này lực lượng quân đội mới được thành lập. Có điều gì đó rất gần gũi và thân mật trong bầu không khí tập thể của quân đội. Những người từ khắp nơi mà gặp không hẹn trước, nhưng họ không hề xa lạ. Từ ‘lũ chúng tôi’ không có nghĩa là coi thường đối tượng được mô tả, mà là một cách tự nhiên để nói về bản thân những người lính. Vốn dĩ họ là những nông dân thanh niên mặc quân phục, biết cuộc sống yên bình nhưng không quen chuyện binh đao.

‘ Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh.’

Có thể nói đoạn thơ này thể hiện rõ nhất sự quyết tâm đánh bại kẻ thù của những người lính thời đại này. Người lính này dường như có thể tạo ra bất cứ thứ gì chỉ bằng đôi tay trần của mình. Vì không có giáo hoặc kiếm nên sẽ phải rèn một cái. Anh ta không có súng và đạn nên anh ta sẽ tìm súng và đạn. Đoạn thơ đã thể hiện tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Khi nhân dân đã giác ngộ lý tưởng cách mạng và có tinh thần yêu nước sâu sắc, căm thù giặc thì ai cũng thể hiện lòng dũng cảm trong chiến đấu. Khi người lính nhập ngũ, anh đã bỏ lại gia đình và những người thân yêu của mình.

‘Mái lều tranh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya.’

Cuộc sống ở quê hương vẫn còn nhiều khó khăn. Người lính hoài niệm, nhớ về quê hương nhưng không hề thấy buồn hay nản. Trong thâm tâm, họ nhớ về quê hương với cảm giác nhớ người vợ trẻ. Người lính ra chiến trường nhớ vợ, nghĩ đến những vất vả của người vợ khi phải gánh trách nhiệm của người phụ nữ với gia đình và trách nhiệm với tiền tuyến.

Hai chữ “mòn chân” gợi nhiều cảm giác thương nhớ người ra đi và những người thân yêu ở hậu phương.

“Nhớ” là bài thơ nói về người lính trong những mối quan hệ khác nhau. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thực và sinh động về tình đồng đội, hoạt động sinh hoạt của những người lính trong quân đội. Cuộc sống còn khó khăn nhưng họ rất hạnh phúc và lạc quan. Tinh thần đồng đội được thể hiện một cách sâu sắc và đầy yêu thương trong hoạt động hàng ngày của các anh. Chặng đường hành quân chứa đựng tình yêu thương sâu sắc và để lại nhiều kỷ niệm.

‘Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kì hộ lưng nhau, ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa …

– Đằng nớ vợ chưa? Đằng nớ

-Tớ còn chờ Độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.’

Bài thơ cũng cho thấy sâu sắc tình quân dân. Đất nước trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả chân thực, dựa trên nhiều khía cạnh mới của sinh hoạt tập thể, từ “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh người mẹ già đi bắt rận cho những đứa con ở phương xa, đến giây phút chia tay ngập tràn yêu thương và những sắc thái động tác, lời nói độc đáo.

Chúng tôi đi, nhớ nhất câu nì

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập nhớ rẽ viền với chắc”.

Làm sao lại có thể không nhớ đến một ngôi làng đẹp đẽ, giản dị và giàu tình người như vậy? Hồng Nguyễn đã tận dụng tốt trong việc khai thác phong cảnh đẹp đẽ mà đầy yêu thương này.