Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc siêu hay

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc siêu hay
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc siêu hay tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc siêu hay được chúng minh sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo, các bài văn mẫu hay để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. Mời các bạn tham khảo.

1. Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc siêu hay:

Trong văn học trung đại, bên cạnh những chủ đề thể hiện tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, cảnh đẹp. Tình cảm đó có thể được thể hiện rõ nét trong bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông.

Bài thơ được viết nhân dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở huyện Thiên Trường. Vì vậy, cả bài thơ đều tràn ngập nỗi nhớ và tình yêu quê hương. Bài thơ mở đầu mô tả cảnh chiều hôm:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Cảnh vật hiện ra không rõ ràng, nửa sai, nửa thật và mơ hồ. Đó là khung cảnh chiều muộn với khung cảnh nhợt nhạt trong sương, thể hiện vẻ đẹp mộng mơ và sự tĩnh lặng của miền quê. Lời cảnh báo là một phần danh tính thực sự của tác giả. Cảnh tượng vừa thực vừa mộng, “nửa không tồn tại, nửa tồn tại” – nửa như tồn tại, nửa như không. Chiều về, nỗi buồn lên đến đỉnh điểm, không gian làng quê tĩnh lặng, thanh bình. Điều đó thể hiện một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền

Tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên sống động. Chiều về, ngoài đồng đàn trâu theo tiếng sáo của lũ trẻ, khung cảnh thật yên bình và đẹp đẽ. Màu trắng của từng cặp an toàn xuống sân cũng không làm giảm đi góc hẹp. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – màu trắng tinh khôi của đôi cánh cò; Thính giác – tiếng sáo du dương, du dương của trẻ con chăn trâu. Nếu ở hai dòng đầu bài thơ, khung cảnh tĩnh lặng, tĩnh lặng không có chuyển động thì ở hai dòng cuối, khung cảnh trở nên sống động nhờ sự xuất hiện của âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “đôi cò trắng bay vào cánh đồng” khiến không gian như mở ra, trở nên thoáng đãng, cao ráo, rộng rãi, sạch sẽ, yên bình. Qua đó còn thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, mang đến cảm giác thân thuộc, gần gũi.

Bài thơ có sự kết hợp sáng tạo giữa song song và ám chỉ. Nhịp điệu bài thơ lãng mạn, hài hòa, giọng điệu nồng nàn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc. Sử dụng ngôn ngữ hình ảnh, miêu tả. Đó là bức tranh phong cảnh làng quê quen thuộc ở bất kỳ vùng miền nào trên đất nước ta. Chỉ với một vài nét phác họa, có thể tìm thấy một bức tranh thật sự yên bình và tĩnh lặng.

Sử dụng ngôn ngữ biểu cảm và tranh vẽ giả tạo, chúng tôi vẽ nên bức tranh về một ngôi làng yên tĩnh nhưng không cô đơn. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp, hài hòa và nên thơ. Bài thơ còn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả.

2. Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng chọn lọc ý nghĩa nhất:

Văn học Việt Nam trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19), cùng với những bài thơ tượng trưng như  Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, tổ tiên chúng ta đã sáng tác nhiều tác phẩm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn Sơn Ca của Nguyễn Trãi là hai văn bản như vậy.

Qua bức tranh phong cảnh và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành. Hai bức tranh thiên nhiên, hai tâm hồn thơ – tình quê hương, đất nước, sự lạc quan, tình yêu cuộc sống, rất đáng trân trọng.

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền”.

Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:

“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,

Bóng chiều man mác có dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.

Truyền thuyết kể rằng sau khi lãnh đạo quân dân ta đánh giặc Mông – Nguyên giành thắng lợi, đất nước trở lại thái bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông ngẫu nhiên sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo lối thơ Đường, bảy chữ bốn câu, giọng điệu hài hòa, nhẹ nhàng, tao nhã. Đây là hình ảnh vùng quê lúc chạng vạng, dần tối. Hai câu đầu miêu tả cảnh làng quê yên bình, thơ mộng:

“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,

Bóng chiều man mác có dường không”.

Những xóm, nhà tranh nối nhau thoải mái, tiến tới lùi, san sát nhau bốn phía, phủ một lớp khói nhạt, mờ ảo, “nửa không tồn tại, nửa tồn tại” nửa như có, nửa như không. Khói đến từ đâu? Có lẽ, đó là những làn sóng sương hòa quyện với sương lúa ngay từ trên mái nhà lan tỏa thành làn sương – sương trắng, nhẹ nhàng bay nhẹ nhàng và thanh thản, khiến lòng người tỉnh táo, dễ chịu, đôi khi có, đôi khi không. Khung cảnh thoáng đãng, nhẹ nhàng tạo cảm giác nhẹ nhàng trong tâm hồn con người. Hay vì lòng người lâng lâng, mộng mơ nên thấy làng quê sương khói mà yên bình đến vậy? Môi trường bên ngoài và môi trường tinh thần hòa hợp rất tự nhiên. Đến hai câu tiếp theo, cảnh tượng có chút đáng lo ngại:

“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.

Bức tranh nông thôn thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Gần đó có vài “người chăn cừu” đang chăn trâu vào thôn, vừa đi vừa thổi sáo. Tiếng sáo vang vọng khắp quán. Xa xa, vài con cò trắng từng đôi một sà xuống cánh đồng như muốn tìm kiếm, hay có ý định nghỉ ngơi! Con người và muông thú, thiên nhiên, cánh đồng, âm thanh và màu sắc… tất cả đã hòa quyện vào nhau để vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng nhưng thực sự có hồn. Nhà thơ chỉ chọn một vài chi tiết tiêu biểu, rồi dừng lại một số chi tiết như muốn thổi hồn vào cảnh đó.

Cảnh vốn đã đẹp, qua hồn người trở nên đẹp hơn. Cả một vùng đất rộng lớn được gói gọn trong bốn dòng thơ đầy ý nghĩa và biểu cảm. Rõ ràng, khung cảnh buổi chiều ở cung Thiên Trường là khung cảnh quê hương yên tĩnh mà không hề hoang vắng bởi ở đây vẫn tồn tại cuộc sống con người hòa hợp với khung cảnh thiên nhiên rất thơm và thơ mộng. Một vị vua sáng tác những bài thơ sắc bén như vậy chứng tỏ dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn ông vẫn gắn bó với quê hương quê hương.

Nói cách khác, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông đã thể hiện tình yêu quê hương, tình người và tình yêu trong sáng đối với cuộc sống. Điều đó cũng chứng tỏ rằng vào thời nhà Trần, dân tộc ta đã sống rất cao thượng. Bài thơ Trần Nhân Tông thêm một tia sáng nữa vào “niềm tự hào Đông Á” trong thơ ca nhà Trần.

3. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm Thiên Trường vãn vọng:

3.1. Tác giả:

– Trần Nhân Tông (1258 – 1308) là vị vua thứ ba của nhà Trần. Người là vị hoàng đế sáng suốt đã lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu giành thắng lợi trong cuộc tấn công quân sự ban đầu và khôi phục kinh tế, văn hóa Đại Việt.

– Trần Nhân Tông còn là vị tiên nhân đã sáng lập ra thiên đường Trúc Lâm Yên Tử, đồng thời cũng là tác giả có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học dân tộc.

– Thơ Trần Nhân Tông giàu cảm xúc yêu nước và tinh thần Đông Á; Những cảm xúc rất tinh tế, lãng mạn, sâu sắc nhưng vẫn gần gũi, quen thuộc; ngôn ngữ thơ hàm súc; Hình ảnh vừa chân thực vừa giản dị, giàu ý nghĩa, biểu tượng ẩn chứa. Đặc biệt, thơ ông luôn thể hiện cái nhìn đằm thắm, đằm thắm; gắn bó tình cảm với cảnh sắc thiên nhiên của đất nước và cuộc sống của người dân.

3.2. Tác phẩm:

Thể loại:

Thiên trường vãn vọng thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật.

Nguồn gốc và hoàn cảnh sáng tác:

Bài thơ được sáng tác trong một lần về thăm quê hương. Các vị vua nhà Trần đã xây dựng một cung điện gọi là cung Thiên Trường ở quê hương để mời họ về yên nghỉ. Mỗi lần về đó, các vua thường để lại những bài thơ, các vua thường có thơ lưu lại, trong đó có bài này.

Ngày sáng tác không được ghi cụ thể, nhưng bài thơ chắc chắn ra đời không lâu sau chiến thắng lần thứ ba trước quân Nguyên-Mông, trong thời kỳ cuộc sống yên bình của nhân dân đang được khôi phục (tức là vào khoảng những năm 90 của thế kỷ 20). thế kỷ 13).

Phương thức biểu đạt: phương thức diễn đạt mang tính biểu cảm

Bố cục văn bản:

Gồm 2 phần

Phần 1: 2 câu đầu: Cảnh thôn xóm vùng Thiên Trường trong buổi chiều tà

Phần 2: 2 câu cuối: Cảnh sắc đồng quê dân dã, mờ ảo trong buổi chiều tà

Nội dung:

Khung cảnh buổi chiều ở điện Thiên Trường là khung cảnh của một vùng đất yên tĩnh mà không hề hoang tàn. Ở đây, cuộc sống con người vẫn tỏa sáng thơ mộng hòa cùng cảnh quan thiên nhiên. Qua đó giúp họ thấy rằng dù tác giả có địa vị tối cao nhưng tâm hồn ông vẫn gắn bó bằng xương bằng thịt với quê hương mộc mạc.

Nghệ thuật:

Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo

Nhịp điệu thơ lãng mạn hài hòa

Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm nét và giàu tính hội họa

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt