Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất tại truongptdtntthptdienbiendong.edu.vn

1. Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

Mở bài:

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm

Thân bài:

Cảm giác bùi ngùi, xót xa trước cảnh chia tay:

– Đại từ “ai” –thường gặp trong ca dao, dân ca, được Tố Hữu sử dụng khóe, gợi một cõi mơ hồ, mông lung, mơ hồ.

– Từ láy “xót xa”, “băn khoăn” thể hiện trực tiếp làn sóng trong lòng tác giả, làn sóng nhớ thương dâng tràn của người ra đi.

– Hình ảnh “nắm tay nhau biết nói gì hôm nay” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng đọc giả, gợi lên chút gì đó bùi ngùi và cả xúc động.

Nỗi nhung nhớ cảnh vật thiên nhiên và những con người trên vùng đất Việt Bắc:

– Người lính khi ra đi nhớ da diết  về cảnh sắc thiên nhiên và những kỉ niệm, những ngày tháng đầy khó khăn, thiếu thốn ở Việt Bắc.

+ Nhớ những cảnh thiên nhiên dân dã bình dị mà thấm đượm tình người, với là hình ảnh vầng trăng lên, ánh nắng chiều, khói bếp lửa và nhớ những địa danh nghe tên sao mà thân thương gắn bó ở nơi đây.

+ Nhớ những ngày tháng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, hình ảnh những người mẹ Việt Nam cần cù, ân cần bao dung địu con ra đồng, hay là hình ảnh những lớp học trong đêm…

– Nhớ hình tứ bình và nhớ cảnh “hoa có người”

+ Bức tranh mùa đông lạnh giá: trên nền xanh thăm thẳm ấy, lại điểm xuyết màu đỏ của hoa chuối rừng cùng với đó là hình ảnh con người với tư thế mạnh mẽ “giắt dao” – con người hiên ngang làm chủ thiên nhiên, đang làm việc chăm chỉ

+ Bức tranh mùa xuân: ngập tràn sắc trắng của bông hoa mai và bóng dáng con người tỉ mỉ, cẩn thận, khéo léo với công việc âm thầm “rải từng sợi nước cho non sông”.

+ Bức tranh mùa hè: trong tiếng ve kêu như gọi cả khu rừng chuyển sắc sang màu vàng để đón hè và “cô gái hái măng” xuất hiện trên nền bức tranh thiên nhiên được gợi lên với vẻ đẹp của trẻ thơ. Người dân nơi đây thật khoan dung, cần cù, chăm chỉ.

+ Bức tranh mùa thu: với “ánh trăng thanh bình” cùng khúc hát “trao duyên” với bao tình cảm của người dân nơi đây.

– Nhớ những năm tháng chiến đấu bất khuất, cùng nhau đánh giặc: ngày đêm hành quân, “đêm đêm rền vang như đất rung”. Cùng với đó những đoàn quân “trùng điệp” và những đoàn dân “giận chân tàn lửa”.

– Nhớ về Việt Bắc với niềm tin quyết thắng và sự tự hào về Trung ương Đảng, Bác Hồ.

Kết bài: Khẳng định lại giá trị của bài thơ và nêu cảm nghĩ cá nhân

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất:

Tố Hữu không chỉ là nhà cách mạng mà ông còn là một trong những nhà thơ xuất sắc, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Với chất thơ tình cảm nhẹ nhàng, luôn có sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, sáng tác của ông luôn thống nhất, song hành với con đường cách mạng và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ra đời tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, bài thơ “Việt Bắc” là một trong những bài thơ tiêu biểu của thơ Tố Hữu. Đọc bài thơ, người đọc sẽ bùi ngùi, xúc động trước tình cảm của người đã khuất đối với mảnh đất này.

Trước hết, những câu thơ mở đầu của bài thơ đã mở ra một khung cảnh chia tay đầy lưu luyến, đó là câu hỏi của người ở lại “Mình về mình có nhớ ta” đã có biết bao cảm xúc và kỉ niệm trong quãng thời gian “mười lăm năm” ấy. Để rồi qua đó bộc lộ rõ nét nỗi buồn, sự lo lắng, lưu luyến của người ra đi.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Chỉ với bốn câu thơ, có lẽ cũng đủ nói lên cảm xúc của người ra đi trong giờ phút chia tay. Đại từ “ai” – một đại từ quen thuộc trong ca dao, dân ca được tác giả khéo léo đưa vào sử dụng, nó gợi ra một cõi mơ hồ, mông lung, mờ ảo trong nỗi nhớ của người đã khuất. Ngoài ra, tác giả đã sử dụng các từ “Bâng khuâng”, “tha thiết” để diễn tả trực tiếp làn sóng lòng, làn sóng trào dâng nỗi nhớ của người ra đi. Đặc biệt, hình ảnh “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” có lẽ đã thực sự để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Có gì đó buồn, có ngập ngừng và cả sự xúc động, cảm xúc trong khoảnh khắc đó khiến người ta không nói nên lời, không biết bắt đầu từ đâu để có thể bày tỏ cảm xúc của mình. Tất cả, tất cả những hành động ấy chỉ có thể giải thích bằng tình cảm gắn bó thiết tha của người ra đi và người ở lại trong suốt mười lăm năm. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm tình bạn, mười lăm năm “tình ta trước sau như một”. Quãng thời gian ấy đủ dài, đủ lưu luyến để lúc chia tay người ta thấy nặng lòng, thấy vương vấn, xao xuyến và lưu luyến.

Nhưng có lẽ không chỉ dừng lại ở cảm xúc đó, người ra đi còn có cả nỗi nhớ – một nỗi nhớ khắc khoải, da diết, một nỗi nhớ da diết như “nhớ người yêu”. Đầu tiên, người ra đi nhớ lại những kỷ niệm, những tháng ngày đầy khó khăn, gian khổ và thiếu thốn.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Nhớ về Việt Bắc, người ra đi nhớ về những cảnh thiên nhiên bình dị mà ấm áp tình người, đó là hình ảnh vầng trăng lên, hình ảnh nắng chiều và hình ảnh ngọn lửa bập bùng mỗi đêm. Hình ảnh ngọn lửa ấy dường như đã thắp lên trong trái tim mỗi người hơi ấm của tình yêu thương và sức mạnh chiến đấu. Cùng với đó, là nỗi nhớ về tất cả những khung cảnh từng rừng tre– nơi người ra đi đã gắn bó lâu dài. Ngoài ra, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ những tháng ngày lưu luyến, nhớ những lúc chia ngọt sẻ bùi mà người ra đi và người ở lại chia sẻ, cùng nhau vượt qua.

Nhớ chiến khu Việt Bắc sao không nhớ những ngày ta chung chăn, sẻ nửa bát cơm, nhớ hình ảnh những người mẹ Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó địu con ra đồng, hình ảnh những lớp học buổi tối và cả những khó khăn trong công việc. Với biện pháp liệt kê, lặp lại nhiều lần từ “nhớ”, ở đầu mỗi cặp câu lục bát, tác giả Tố Hữu dường như đã cho người đọc thấy được nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của người đã ra đi.

Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi vẫn nhớ đến bức tranh tứ bình, nhớ đến những “những hoa cùng người” như nét độc đáo của thiên nhiên và con người nơi đây. Mở đầu bức tranh đó là cảnh mùa đông.

Bằng phương pháp miêu tả, chỉ với một từ “xanh” nhưng dường như cũng đủ để tác giả vẽ nên một màu xanh bao la, bát ngát đang bao trùm khắp núi rừng Tây Bắc. Rồi trên cái nền xanh thẳm ấy điểm xuyết màu đỏ của hoa chuối rừng. Màu đỏ ấy làm cho bức tranh thêm sinh động, ấm áp và tràn đầy sức sống, tươi sáng hơn. Ngoài ra, trên cái nền của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên với tư thế “dao gài thắt lưng” – con người đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ trời đất. Bức tranh mùa xuân tràn ngập sắc trắng của hoa mơ cũng là nét đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc mỗi độ xuân về. Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên một cách tỉ mỉ, cẩn thận và khéo léo với công việc thầm lặng “chuốt từng sợi giang”. Nếu bức tranh mùa đông và mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh, màu sắc thì bức tranh mùa hạ cũng được miêu tả bằng âm thanh sống động của nó. Tiếng ve kêu – thứ âm thanh đặc trưng mỗi độ hè về dường như đã làm cả khu rừng chuyển sang hè, khoác lên mình chiếc áo vàng, làm cho mùa hè thêm rực rỡ. Để rồi, hình ảnh “cô em gái hái măng” một mình hiện lên trên cái nền thiên nhiên ấy đã gợi lên vẻ đẹp của những con người nơi đây chịu thương, chịu khó và rất cần cù. Khép lại bức tranh là vẻ đẹp của mùa thu với “trăng rọi hoà bình” và khúc hát “ân tình thuỷ chung” với bao tâm tư, tình cảm của người dân nơi đây. Như vậy có thể thấy, người ra đi nhớ đến bức tranh tứ bình với vẻ đẹp độc đáo, hài hòa giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Không dừng lại ở đó, trong lòng người ra đi còn nhớ về những năm tháng chiến đấu anh dũng, nhớ về những ngày cùng nhau đánh giặc. Nhớ Việt Bắc là nhớ những cuộc hành quân suốt ngày đêm. Là nhớ đến những đoàn quân “điệp điệp trùng trùng” và những đoàn dân “Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Có thể thấy, với giọng điệu hào hùng, nhịp thơ nhanh, mạnh đã miêu tả rõ nét bức tranh chiến đấu oai hùng, hào hùng của quân và dân ta với niềm vui và khí thế chiến đấu tràn trề. Tình cảm cuối cùng của người ra đi được thể hiện trong đoạn trích Nhớ về Việt Bắc niềm tin và lòng ngợi ca, tự hào đối với Trung ương Đảng, Bác Hồ.

Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu với nhịp điệu nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị, đậm sắc thái dân gian và thể thơ lục bát quen thuộc của dân tộc đã thể hiện chân thực và sâu sắc tình cảm của người dân Việt Bắc. cung bậc tình cảm, cảm xúc của người lính với thiên nhiên, con người Việt Bắc.

3. Phân tích bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu siêu hay:

Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa. Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.

Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:

“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.

Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:

“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hòa bình.

“Mình đi, mình có nhớ mình”

Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:

“Mình đi, mình lại nhớ mình”

(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)

Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.

Để xua tan những hòai nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.

Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:

“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)

(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.